Bài viết c. Khái niệm yếu tố ngoại sinh – Tài liệu
text thuộc chủ đề về Giải Đáp thời gian này
đang được rất nhiều bạn quan tâm đúng không nào !! Hôm nay, Hãy
cùng Khoa Lịch Sử tìm hiểu
c. Khái niệm yếu tố ngoại sinh – Tài liệu text trong bài viết hôm
nay nhé ! Các bạn đang xem bài : “c. Khái niệm yếu
tố ngoại sinh – Tài liệu text”
Đánh giá về c. Khái niệm yếu tố ngoại sinh – Tài liệu text
Xem nhanh
Như vậy một yếu tố văn hóa ngoại sinh có khả năng được tiếp biến, bản
địa hóa, chuyển hóa thành nội sinh trong quy trình phát triển của nền văn
hóa trong lịch sử. có khả năng nội sinh hóa các yếu tố ngoại sinh chính là
sức sống, có khả năng sinh tồn cuả một nền văn hóa. có khả năng này càng
mạnh mẽ, khéo léo nền văn hóa đó càng phát triển. có khả năng này càng
yếu ớt văn hóa càng èo uột và có nguy cơ bị hòa tan, bị triệt tiêu.
Khi nghiên cứu về các yếu tố nội sinh và ngoại sinh, PGS, TS Đỗ
Lai Thúy cho rằng: Chỉ có những yếu tố ngoại sinh nào được nội sinh
hóa, nghĩa là đã biến dạng tuy là nó những không còn là nó như ban đầu
nữa mới được coi là yếu tố nội sinh khi xem xét ở thời điểm giao lưu
khác. Như vậy có những yếu tố văn hóa vĩnh viễn chỉ là yếu tố ngoại
sinh, dù có mặt trong một nền văn hóa khác rất lâu, vì chúng không được
nội sinh hóa, chúng vẫn là chúng như ở nền văn hóa mà chúng xuất hiện.
Ví dụ, âm P trong từ Popơlin cho đến nay vẫn nằm ngoài hệ thống ngữ
âm tiếng Việt, cho dù du nhập vào văn hóa Việt Nam từ cuối thế kỷ 19.
công ty chúng tôi cho rằng, việc những thuật ngữ tiếng nước ngoài được
chấp nhận sử dụng nguyên dạng hoặc phiên âm theo kiểu âm tiếng Việt,
thực chất cũng đã là một bước nội sinh hóa. vì thế để thuận tiện xem xét, chúng
tôi đưa ra một quan niệm ít nhiều mang tính máy móc, nghĩa là, tại một
thời điểm nhất định, những yếu tố văn hóa có nguồn gốc ngoại sinh đã
tồn tại trong một nền văn hóa chủ thể đều được coi là yếu tố nội sinh.
1.1.2 Quan hệ giữa yếu tố nội sinh và ngoại sinh trong giao lưu văn
hoá
Bất kỳ hình thức giao lưu nào cũng phải có sự du nhập của các yếu
tố ngoại sinh vào nền văn hoá bản điạ và luôn luôn xảy ra mối tương tác
giữa các yếu tố nội sinh và các yếu tố ngoại sinh.Vấn đề đặt ra ở đây là:
Vậy các yếu tố nội sinh và yếu tố ngoại sinh quan hệ với nhau như thế
nào để có khả năng đạt được sự biến đổi trong mô thức một nền văn hoá? Hay
nói cách khác thì giải quyết mối quan hệ giữa yếu tố nội sinh và yếu tố
ngoại sinh mang tính quy luật như thế nào trong phát triển văn hoá? Để
làm rõ quy luật này ta sẽ phân tích có khả năng tương tác giữa các yếu tố nội
sinh và yếu tố ngoại sinh trong một nền văn hoá chi tiết, mà trong phạm vi
công trình thống kê này công ty chúng tôi chọn lựa chính nền văn hoá Việt.
Xét về mặt logic thì giữa các yếu tố nội sinh và yếu tố ngoại sinh có thể
xảy ra các quan hệ sau đây:
1. Các yếu tố ngoại sinh khi du nhập vào nền văn hoá bản điạ đã
được chấp nhận và thay thế cho các yếu tố nội sinh tươg đưong làm cho
các yếu tố này bị mất đi, hoặc giảm đi đáng kể vai trò của mình trong nền
văn hoá bản địa.
Ta có thể đơn giản chứng minh tình trạng này trong nền văn hoá Việt
Nam. Trước khi giao lưu với văn hoá phương Tây, tục nhuộm răng đen
còn là một phong tục cổ truyền rất phổ biến trong nền văn hoá Việt. Khi
giải thích về nguồn gốc của phong tục này, nhiều nhà thống kê đã
khẳng định rằng tục nhuộm răng đen là nhu cầu cần khẳng định sự khác
biệt mình với giới tự nhiên của người Việt. Khi giao lưu với văn hoá
Pháp, tục này đã hoàn toàn bị thay đổi bằng tục để răng trắng và cũng
được giải thích rằng đó là sự phát triển cao hơn của con người với tư cách
là một cá nhân (không chỉ là một cá thể như trước đây) thì con người đã
có thường xuyên cách khác nhéu để khăng định bản thân mình, Vì vậy không cần
thiết phải nhuộm răng đen nữa. Bất kỳ một sự lý giải nào về văn hoá
cũng chỉ mang tính suy luận, ước đoán, song việc tục nhuộm răng đen bị
mất đi dưới tác động của mối giao lưu văn hoá với Phương Tây thông qua
văn hoá Pháp là một điều không thể phủ nhận. Cũng có thể nhận thấy
rằng dưới ảnh hưởng của giao lưu với văn hoá Pháp mà mô thức văn hoá
trong trang phục của người Việt cũng thay đổi ngay hoàn toàn. Thay bằng bộ
quần chùng, áo dài của nam giới và chiếc váy rộng cùng áo tứ thân của
nữ giới là bộ complê và những bộ quần áo theo đúng kiểu trang phục
phương Tây. Trong trưòng hợp này, như ta đã thấy yếu tố nội sinh bị thay
thế hoàn toàn bởi yếu tố ngoại sinh, tạo ra sự biến đổi trong phong tục cổ
truyền của người Việt.
Nếu ta ngược lại xa hơn dòng lịch sử của dân tộc ta thấy rõ sự biến
đổi trong mô thức văn hoá Việt Nam trong quan hệ với các yếu tố ngoại
sinh được thể hiện rất rõ trong vốn từ vựng, trong hệ thống lễ hội cổ
truyền và trong rất thường xuyên lĩnh vực văn hoá tinh thần khác. Đơn cử một ví
dụ, trước thế kỷ 15, Nho giáo mặc dù đã được du nhập từ rất lâu (từ
những năm đầu công nguyên) song vẫn chưa tìm được vị trí vững chắc
trong nền văn hoá dân gian bản điạ, thì các nghi lễ nông nghiệp như nghi
lễ cầu mưa, cầu nắng, cầu mùa màng sinh sôi nảy nở đặc biệt là các nghi
lễ phồn thực, vốn là nghi lễ xuất phát từ tín ngưỡng bản địa tồn tại rất lâu
đời trong nền văn hoá bản điạ truyền thống của người Việt vẫn là các
nghi lễ chính thống trong các lễ hội dân gian cổ truyền. Nhưng khi nhà
Hậu Lê quyết liệt chọn Nho giáo làm quốc giáo, thì mọi nghi lễ, nghi
thức của các lê hội dân gian bản điạ này, đặc biệt là nghi lễ phồn thực
phải nhường chỗ cho các nghi lễ của Nho giáo, các yếu tố nội sinh bị đẩy
lui sang như các nghi lễ bên lề, như những tục hèm trong các lễ hội
truyền thống. Mối quan hệ của các yếu tố nội sinh và ngoại sinh này đã
làm biến đổi đáng kể bộ mặt của hệ thống lễ hội cổ truyền, làm mới hơn,
phong phú hơn hệ thống nghi lễ, nghi thức và đẩy các nghi lễ cổ truyền
sang bên lề. Tuy nhien các nghi lẽ mang tính bản địa này vẫn tồn tại trong
trong vô thức của nhân dân, trong những phong tục đặc biệt được gọi là
“tục hèm” mà nhiều khi không thể lý giải được nếu như không bóc tách
đúng, giải mã đúng các lớp phủ văn hoá của chúng.
Cũng có thể đưa ra một bằng chứng khác của việc thay thế các
phong tục bản địa bằng một phong tục khác dưới động của nền văn hoá
du nhập. Đó là phong ục “cướp dâu”, một phong tục khá thường nhật của cư
dân văn hoá bản địa có chung cơ tầng văn hoá Đông Nam Á. Gọi là cướp
dâu, nhưng thực tế đó là một phong tục đẹp, tượng trưng cho khát vọng tự
do yêu đương của thanh niêm nam nữ thời đó. Bởi vì về thực chất đây là
một sự thoả thuận giữa đôi trai gái yêu nhau, quyết tâm vượt mọi khó
khăn cản trở để cùng nhau xây dựng mộng lứa đôi, đăc biệt là vượt qua
sự cấm đoán của cha mẹ, hay sự thách cưới quá cao vượt quá khả năng
của chú rể tương lai. Cô dâu khi được cướp về thi chỉ làm kết hôn
tượng trưng, mang tính Thủ tục và được toàn bộ dân làng ủng hộ. Song
khi Nho giáo du nhập vào, với tác động của đạo lý “tam tòng, tứ đức”,
người con gái bị trói buộc hoàn toàn vào ý muốn của cha mẹ, “cha mẹ đặt
đâu con ngồi đấy” nên phong tục đẹp này bị mai một đi và thay thế bằng
các nghi lễ “vấn danh” hay “dạm hỏi” mang khá đậm màu sắc Nho giáo
trong văn hoá Việt. mặc khác ở các nền văn hoá các dân tộc thiểu số
khác như người H’mông chẳng hạn, tục này còn duy trì cho tới tận ngày
nay.
Tóm lại, với việc thay thế và hầu như thay thế các yếu tố nội sinh
cũng như, các yếu tố ngoại sinh có vai trò quan trọng trong việc làm
đổi mới những mô thức văn hoá trong nền văn hoá bản địa, tạo cho nền
văn hoá này biến đổi đa dạng hơn và đa dạng hơn.
2. Các yếu tố ngoại sinh khi du nhập vào nền văn hoá bản địa thì
kết hợp với các yếu tố nội sinh để tạo ra các yếu tố mới, các yếu tố lai tạo
hết sức độc đáo và lý thú. Mối tương tác kiểu này giữa các yếu tố văn hoá
bản địa và yếu tố du nhập có thể coi là mối tương tác thường nhật nhất và tạo
cho nền văn hoá bản địa phong phú, đa dạng và hấp dẫn hơn rất thường xuyên.
có khả năng tìm được một cách dễ dàng các minh chứng hùng hồn cho mối
quan hệ tạo tiền đề cho phát triển dạng này. Khi Đạo giáo Phù thuỷ du
nhập vào nền văn hoá Việt Nam đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn và tài
tình với một tín ngưỡng dân gian bản địa rất phổ biến, rất đặc trưng trong
cơ tầng văn hoá Đông Nam Á, đặc trưng cho nền văn hoá nông nghiệp
trồng lúa nước là tín nguỡng thờ mẫu để tạo thành tín ngưỡng Tam phủ,
Tú phủ. Tín ngưỡng Tam phủ, tứ phủ là một tín ngưỡng hết sức đặc sắc
trong nền văn hoá Việt Nam, nó vừa là tín ngưỡng thờ Mẹ Đất, mẹ Nước,
mẹ Trời theo tâm thức dân gian truyền thống, vừa khác với tín ngưỡng
thờ Mẹ vốn rất mộc mạc, chất phác bản địa bởi sự kết hợp vào đó các yếu
tố trừ tà, trừ bệnh, xin thẻ, xin phép xăm, bói toán, phong thuỷ… và việc dung
hợp vào hệ thống các dối tượng tôn thờ thường xuyên ông hoàng, bà chúa, cô,
cậu… của Đạo giáo Phù thuỷ. Việc lai tạo này thể hiện rất rõ vai trò quan
trọng của gen nội sinh (các yếu tố nội sinh) và ưu thế của gen ngoại sinh
(các yếu tố ngoại sinh) để tạo ra một hiện tượng văn hoá lai đặc sắc và
độc đáo.
Chữ Nôm cũng là một bằng chứng hùng hồn cho quan hệ Nội Ngoại sinh kết hợp này. sử dụng một cách khéo léo các ký tự Hán theo
một quy tắc ghép tự đặc biệt để ghi âm chữ Việt, chữ Nôm là một sản
phẩm được lai tạo hết sức tài tình và độc đáo góp phần quan trọng trong
việc hình thành nền văn hoá bác học trong lòng nền văn hoá dân gian của
Việt Nam và trong việc bảo tồn lưu giữ các di sản van hoá tinh thần của
cha ông ta suốt mấy thế kỷ.
Sự du nhập của Phật giáo cũng làm xuất hiện một tiểu hệ thống các
lễ hội mới trong hệ thống lễ hội cổ truyền, đó là các lễ hội chùa, mà chủ
yếu là các lễ hội chùa dạng tiền phật hậu thần hay tiền phật hậu mẫu. Đây
là dạng lễ hội rất độc đáo, kêt hợp nhuần nhuyễn các yếu tố Phật giáo
ngoại sinh với tín ngưỡng dân gian bản điạ. Trong các loại hình lễ hội
chùa này ta thấy các yếu tố của Phật giáo như nghi lễ thờ Phật, các dạng
thức đọc kinh, kể hạnh… luôn gắn bó, dung hoà với các tục thờ cây, thờ
tự nhiên, tục thờ nhân thần… vốn đặc trưng cho tín ngưỡng bản địa. Một
nguyên mẫu cho loại hình văn hoá lai tạo dưới tác động của các yếu tố
ngoại sinh và nội sinh này có khả năng kể đến lễ hội chùa Dâu. Việc kết hợp
giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ các yếu tố tự nhiên đã tạo ra một tín
ngưỡng độc đáo là tín ngưỡng thờ “Tứ Pháp”, một trong các nguyên cớ
căn bản, hạt nhân quan trọng để tiến hành lễ hội này. Trong lễ hội chùa
Dâu, ta thấy những yếu tố văn hoá bản địa kết hợp với Phật giáo một cách
tài tình và tuyệt diệu để tạo nên Phật Thạch quang mà bản chất chính là
tục thờ đá rất cổ xua của người Việt kết hợp với Phật giáo, tục thờ tứ
pháp về bản chất chính là tục thờ cây + tục thờ mây mưa, sấm chợp +
Phật giáo. Nếu phân tích bất kỳ một lễ hội chùa nào như lễ hội chùa
Láng, lễ hội chùa Thầy… đều thấy rõ sự dung hợp, gắn kết, lai tạo tài tình
của các yếu tố bản địa với Phật giáo như vậy.
Tóm lại, việc kết hợp giữa các yếu tố nội sinh bản địa và ngoại sinh
du nhập vào để tạo ra các yếu/thành tố văn hoá mới mang sắc tố của cả
hai yếu tố nội và ngoại sinh là một phương thức phát triển của văn hoá
bản điạ theo xu thế phong phú hoá, đa dạng hoá.
3. Các yếu tố ngoại sinh khi du nhập vào nền văn hoá bản địa đã
được chấp nhận và tồn tại song song cùng với các yếu tố nội sinh tương
đương với chúng trong nền văn hoá bản địa và tạo nên sự đa dạng, phong
phú cho nền văn hoá đó.
Các dạng quan hệ kiểu này có khả năng kể đến mối quan hệ của từ du
nhập và từ bản điạ trong vốn từ vựng. Trong từ vựng tiếng Việt tồn tại rất
thường xuyên từ Hán – Việt, vốn là các từ du nhập vào từ nền văn hoá Trung
Quốc, và chúng vẫn song song tòn tại cùng với từ gốc bản địa như các từ
đồng nghĩa và chỉ phân biệt với nhau bằng văn phong. Thường thì từ Hán
Việt được sử dụng trong văn viết, trong cách nói trịnh trọng, trong ngôn ngữ
văn học và khoa học, còn các từ gốc bản địa thường sử dụng trong ngôn ngữ
giao tiếp, trong văn phong nói, thường gọi là cách nói nôm na.
Ví dụ:
Từ Hán viêt
Từ gốc bản địa
Tân
mới
cố
cũ
Thuỷ
nước
Thanh
xanh
hồng
đỏ
hoàng
vàng
hải
biển
huyền
đen
hằng
trăng
hạnh
mận
Một bằng chứng khác của mối quan hệ tồn tại song hành và độc lập
này có khả năng kể đến trang phục ngày cưới và trang phục tang lễ của người
Việt. Theo truyền thống, ngày cưới cô dâu mặc áo đỏ, tượng trưng cho sự
may mắn, hạnh phúc; song khi văn hoá phương Tây du nhập vào, thì cô
dâu lại mặc áo trắng, biểu hiện sự trong trắng, tinh khiết trong ngày cưới
của mình. Tang phục cũng tuơng tự như vậy. Màu trắng vốn là màu
tượng trưng cho tang thương, đau đớn của tang gia theo phong tục cổ
truyền (thương đến trắng xương ra) song dưới tác động của giao lưu văn
hoá với phương Tây người Việt chấp nhận cả tang phục màu đen, biểu
trưng cho sự u buồn khi có thân nhân mất. Cho đến nay vẫn tồn tại song
song hai loại tang phục trắng (bản địa) và đen (ngoại sinh) trong tang lễ
của người Việt.
có thể dẫn ra rất nhiều bằng chững khác minh chứng cho việc tồn
tại song song và độc lập như thế của các yếu tố nội sinh và ngoại sinh
trong nền văn hoá Việt Nam và các nền văn hoá khác. Mối quan hệ dạng
này cũng tạo điều kiện cho văn hoá bản điạ phát triển theo chiều hướng đa
dạng hoá.
4. Các yếu tố ngoại sinh khi du nhập vào nền văn hoá bản địa thì
được chấp nhận như một yếu tố văn hoá mới (bởi nó chưa hề có trong nền
văn hoá bản địa) có thể ở dạng nguyên vẹn, cũng có thể ở dạng bản điạ
hoá, tuỳ thuộc vào đặc điểm tiếp biến của nền văn hoá bản địa.
Đặc trưng cho kiểu quan hệ này có thể kể đến Nho giáo, Phật giáo, Ky tô
giáo, các yếu tố văn hoá vật chất như điện, phương thuận tiện giao thông hiện
đại, các đồ sử dụng thuận tiện nghi sinh hoạt.. trong văn hoá Việt ; Bà la môn giáo,
Hồi giáo trong văn hoá Chăm..vv.
Khi các tôn giáo này du nhập vào nền văn hoá Việt Nam do đã
được cải biến, bản địa hoá khiến chúng khác thường xuyên so với nguyên bản.
Song điều ta cần bàn ở đây là sự có mặt của các yếu tố này trong lòng nền
văn hoá bản điạ đã làm thay đổi ngay quan trọng về chất, chúng tạo cho văn
hoá một bước nhảy trong quá trình phát triển của mình. Nho giáo và Phật
giáo đã từng là hệ tư tưởng chính thống của văn hoá Đại Việt và Đại Nam
và với vai trò đó các hệ tư tưởng này đã để lại dấu ấn vô cùng sâu đậm và
sắc nét trong văn hoá Việt Nam từ nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc đến
nghệ thuật văn chương, từ phong tục tập quán đến tâm lý dân tộc, đâu đâu
cũng thấy rõ rệt tác động của các tôn giáo du nhập đó. Và cho tới nay
khi nói về nền văn hoá Việt Nam, không một học giả nào không đề cập đến
tác động của các tôn giáo các hệ tư tưởng du nhập này.
Sự du nhập và có mặt và tiếp biến một cách tài tình của các yếu tố
văn hoá ngoại sinh hoàn toàn mới trong nền văn hoá bản địa thường tạo
cho nền văn hoá bản địa đó sự phát triển mạnh mẽ như những bước ngoặt
từ một nền văn hóa dân tộc trở thành một nền văn hóa mang tính khu vực,
từ một nền văn hoá mang tính khu vực trở thành một nền văn hoá mang
tính quốc tế. Đó là khi mối giao lưu văn hoá tạo ra cho nền văn hoá bản
điạ tất cả những loại hình, dạng thức và yếu tố đặc trưng cho khu vực hoặc
thế giới. Sự du nhập của các yếu tố ngoại sinh như Phật giáo, Nho giáo,
Đạo giáo, Hindu giáo vào nền văn hóa Việt Nam cổ đại đã taoh cho văn
hóa Việt Nam bước ra vũ đài khu vực; Còn sự có mặt của nhạc giao
hưởng, báo chí, điện ảnh, thơ tự do, hội hoạ sơn dầu… từ mối giao lưu với
văn hoá phương Tây đã tạo cho văn hoá Việt Nam bước nhảy vọt ra vũ
đài thế giới.
Ngoài bốn mối quan hệ nêu trên còn phải kể đến mới quan hệ kết
hợp của các yếu tố ngoại sinh vói nhéu, hoặc sự kết hợp của các yếu tố
ngoại sinh trên nền tảng của yếu tố nội sinh bản địa để tạo ra các yếu tố
mới, tạo ra sự đa dạng, đa dạng thường xuyên tầng cho nền văn hóa bản điạ mà
ta có khả năng thấy rất rõ khi phân tích hiện tượng “tam giáo đồng nguyên”, khi
phân tích hệ thống nghi lễ, tín ngưỡng trong lễ hội cổ truyền của Việt
Nam.
Từ những phân tích, chứng minh các mối quan hệ giữa các yếu tố
ngoại sinh và nội sinh trên đây trong nền văn hoá Việt, ta thấy rằng, tất cả
các mối tương tác của các yếu tố này đều đặn tạo khó khăn cho văn hoá bản
điạ phát triển theo các khuynh hướng: đổi mới theo xu thế thời đại (quan
hệ 1); phong phú hoá, phong phú hoá bằng các yếu tố lai tạo, kết hợp giữa
cac yếu tố nội sinh và ngoại sinh (mối quan hệ 2); phong phú hoá, phong
phú hoá bằng sự tồn tại song hành và độc lập của các yếu tố nội sinh và
ngoại sinh (mối quan hệ 3); và đa dạng hoá tạo những bước chuyển biến
về chất, cải thiện vai trò của các yếu tố văn hoá bản địa bằng các yếu tố
văn hoá ngoại sinh hoàn toàn mới so với nền văn hoá bản điạ (mối quan
hệ 4).
Tóm lại, xử lý mối quan hệ giữa các yếu tố nội sinh và ngoại sinh
trong giao lưu văn hoá chính là quy luật phát triển của các nền văn hoá
trên thế giới nói chung, và văn hoá Việt Nam nói riêng. Sự phát triển này
luôn làm giàu bản sắc văn hoá dân tộc, nếu ta hiểu bản sắc văn hoá dân
tộc là một hệ thống mở luôn phát triển và hoàn thiện cùng với lịch sử và
thời gian.
1.2 Dữ liệu văn học và việc khai thác dữ liệu văn học để thống kê
về văn hóa
1.2.1 Dữ liệu và dữ liệu văn học
Dữ liệu là một thuật ngữ khá mới mẻ trong vốn từ vựng ngôn từ
hiện đại. Trong các từ điển tiếng Việt trước đây không thấy xuất hiện
ngôn từ này. Bởi lẽ ngôn từ này ra đời vào thời đại công nghệ thông
tin. Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì dữ liệu được định nghĩa
như sau:
“Nói chung, dữ liệu bao gồm những mệnh đề phản ánh thực tại. Một phân
loại lớn của các mệnh đề quan trọng trong thực tiễn là các đo đạc hay quan
sát về một đại lượng biến đổi. Các mệnh đề đó có thể bao gồm các số, từ
hoặc hình ảnh.”
Theo bách khoa toàn thư tiếng Việt online thì: “Dữ liệu là chất
liệu ban đầu của thông tin, thường là các giá trị của thông tin định
lượng như giá bán của một mặt hàng, số nhà được xây dựng, số người
trong một đơn vị, vv. Trong tin học, DL được sử dụng như một cách biểu
diễn cách thức hoá của thông tin về các sự kiện, hiện tượng, thích ứng
với các bắt buộc truyền đưa, thể hiện và xử lí bằng máy tính và hệ máy
tính”.
Trong như vậy trong thông tin học, dữ liệu được hiểu là những
thông tin ban đầu đã được xử lý theo một quy tắc nhất định để máy tính
điện tử có khả năng đọc, lưu trữ được.
Dữ liệu sau này được sử dụng rộng rãi trong thường xuyên lĩnh vực khác
của khoa học xã hội. Ta có khả năng hiểu một cách chung nhất về ngôn từ này
là:
Xét về mặt từ nguyên thì “Dữ liệu” là một từ hán việt bao gồm hai
yếu tố, trong đó dữ tức dữ kiện, liệu tức số liệu, chất liệu, như thế dữ liệu
là chất liệu ban đầu của thông tin, là các dữ kiện được hàm chứa và được
thể hiện dưới một hình thức nhất định.
Dữ liệu có thể là những thông số cụ thể, số liệu chi tiết như các con
số nghiên cứu, các chỉ số. dữ liệu cũng có khả năng là những thông tin hàm chứa
trong một thông tin khác đáp ứng cho một mục đích khác mà người
thống kê có khả năng sử dụng để minh chứng và suy luận ra những thông tin
khái quát mới.
Trong nghiên cúu khoa học, dữ liệu chính là những thông tin (dữ
kiện hoặc số liệu) dùng để đáp ứng cho những minh chứng, những suy
luận của người nghiên cứu. Các thông tin này thường được thể hiện dưới
một cách thức nhất định và người khai thác nó thường xuyên khi không chỉ sử
dụng chúng theo hàm nghĩa đen mà sử dụng chúng theo nhiều phương
diện khác nhéu. Dữ liệu thường là những thông tin ban đầu là của một
ngành nhưng có thể phục vụ cho việc suy xét, thống kê cho các ngành
khác; có khả năng là những minh chứng ban đầu phục vụ cho một mục đích,
nhưng vẫn có thể được sử dụng để minh chứng cho một mục đích khác.
Ví dụ:
Trong giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam của Tràn Quốc Vượng
thì từ dữ liệu khảo cổ học là tìm thấy nhiều đồ tùy táng trong các mộ của
người cổ xưa, nhà nghiên cứu suy ra rằng: Người Việt cổ thời đó đã có
quan niệm về thế giới bên kia sau cái chết”
Hoặc trong giáo trình cơ sở văn hóa Việt Nam của Trần Ngọc
Thêm, thông qua nội hàm của từ “cái” tức mẹ trong tiếng Việt cổ và việc
sử dụng từ này để chỉ những vật to lớn nhất mà tác giả Trần Ngọc Thêm
đã đưa ra kết luận rằng: Văn hóa Việt Nam cổ là nền văn hóa trọng phụ
nữ.
Các câu hỏi về yếu tố ngoại sinh là gì
Nếu có bắt kỳ câu hỏi thắc mắt nào vê yếu tố ngoại sinh là gì hãy cho chúng mình biết nhé, mõi thắt mắt hay góp ý của các bạn sẽ giúp mình cải thiện hơn trong các bài sau nhé <3 Bài viết yếu tố ngoại sinh là gì ! được mình và team xem xét cũng như tổng hợp từ nhiều nguồn. Nếu thấy bài viết yếu tố ngoại sinh là gì Cực hay ! Hay thì hãy ủng hộ team Like hoặc share. Nếu thấy bài viết yếu tố ngoại sinh là gì rât hay ! chưa hay, hoặc cần bổ sung. Bạn góp ý giúp mình nhé!!
Các Hình Ảnh Về yếu tố ngoại sinh là gì
Các hình ảnh về yếu tố ngoại sinh là gì đang được chúng mình Cập nhập. Nếu các bạn mong muốn đóng góp, Hãy gửi mail về hộp thư [email protected]. Nếu có bất kỳ đóng góp hay liên hệ. Hãy Mail ngay cho tụi mình nhé
Tham khảo thêm tin tức về yếu tố ngoại sinh là gì tại WikiPedia
Bạn có thể tìm thêm thông tin về yếu tố ngoại sinh là gì từ web Wikipedia tiếng Việt.◄ Tham Gia Cộng Đồng Tại???? Nguồn Tin tại: https://khoalichsu.edu.vn/
???? Xem Thêm Chủ Đề Liên Quan tại : https://khoalichsu.edu.vn/hoi-dap/
Các bài viết liên quan đến