Bài viết Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của học thuyết về chủ nghĩa tư bản độc quyền đối – Tài liệu text thuộc chủ đề về Thắc Mắt thời gian này đang được rất nhiều bạn quan tâm đúng không nào !! Hôm nay, Hãy cùng khoalichsu.edu.vn tìm hiểu Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của học thuyết về chủ nghĩa tư bản độc quyền đối – Tài liệu text trong bài viết hôm nay nhé ! Các bạn đang xem bài viết : “Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của học thuyết về chủ nghĩa tư bản độc quyền đối – Tài liệu text”
Xem thêm :- Ý nghĩa của quyền và nghĩa vụ của công dân nhất định bạn phải biết
- Ý nghĩa quyền khiếu nại, tố cáo của công dân – Lê Tấn Thanh
- Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em có ý nghĩa gì?
- Ý nghĩa của việc bảo hộ quyền tác giả – Tư vấn LTL
- Em hãy cho quyền trẻ em có ý nghĩa như thế nào.
- Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của học thuyết về chủ nghĩa tư bản độc quyền đối – Tài liệu text
Đánh giá về Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của học thuyết về chủ nghĩa tư bản độc quyền đối – Tài liệu text
Xem nhanh
Chương này cung cấp cho các bạn sinh viên những tri thức cơ bản về chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Nằm trong nội dung học phần Những NLCB của chủ nghĩa Mác Lênin.
-----------------------
Giảng viên: ThS Ngô Văn Thảo
#nhungnguyenlycobancuachunghiamaclenin
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.28 KB, 25 trang )
DANH SÁCH SINH VIÊN NHÓM 71 Phạm Thị Thu Hiền2 Nguyễn Ngọc Thảo Linh3 Nguyễn Doãn Mẫn4 Nguyễn Thị Mai Nhi5 Trần Nữ Quế Nhi (Nhóm trưởng)6 Võ Trần Minh Ngọc7 Võ Nguyễn Thanh Thảo8 Nguyễn Ngọc Tường Vy9 Nguyễn Văn Nhàn1MỤC LỤC2LỜI MỞ ĐẦU1. Tính cấp thiết của đề tàiVới bức tranh toàn cảnh Hiện tại của toàn cầu, chủ nghĩa tư bản đang ngày cànglớn mạnh và có những đóng góp không ngừng nghỉ cho sự phát triển của nhân loại. Tuynhiên để đánh giá rõ hơn về sự vận động phát triển tương đương có những dự đoán về nhữngbước tiến tiếp theo của chủ nghĩa tư bản, chúng ta cùng nhau thống kê dòng chảy lịchsử của chủ nghĩa này thông qua học thuyết kinh tế về chủ nghĩa tư bản độc quyền, chủnghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Hai học thuyết kinh tế này đến thời điểm Hiện tại vẫncòn nguyên giá trị khi mà quan hệ giữa hàng loạt các tập đoàn lớn trên thế giới đang ngàycàng gắn khít hơn với quan hệ chính quyền nhà nước và có dấu hiệu của sự biến tướng,có thể gây ra lũng đoạn kinh tế thị trường không những của riêng các nước này mà còncó thể gây ảnh hưởng khu vực và thế giới2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài* Mục tiêu: Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về các học thuyết kinhtế, đề tài phân tích tác động của chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản độcquyền nhà nước đối với nền kinh tế thế giới, trong bối cảnh lịch sử và sự phát triển khôngngừng của chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay.* Nhiệm vụ: để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài có nhiệm vụ:
– Khái quát nội dung học thuyết về chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tưbản độc quyền nhà nước.- Phân tích ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của học thuyết trên đối với sự pháttriển của chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay.3. Nội dung nghiên cứuNội dung thống kê của đề tài được kết cấu làm 3 chương, chi tiết như sau:Chương 1: Học thuyết kinh tế về chủ nghĩa tư bản độc quyền.1.1 Cơ sở hình thành1.2 Những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền31.3 Sự vận hành của quy luật tổng giá trị và quy luật giá trị thặng dư trong giaiđoạn chủ nghĩa tư bản độc quyềnChương 2: Học thuyết về chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước2.1 Cơ sở hình thành2.2 Biểu hiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nướcChương 3: Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của học thuyết về chủ nghĩa tư bản độcquyền đối với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại3.1 Ý nghĩa lý luận3.2 Ý nghĩa thực tiễn4. Phương pháp thống kêĐề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử củachủ nghĩa Mác- Lênin, đồng thời vận dụng tổng hợp các phương pháp thống kê như: lôgíc và lịch sử, phân tích và tổng hợp, điều tra xã hội học, nghiên cứu so sánh, thảo luậnnhóm5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tàiĐề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sau đây:Thứ nhất, đề tài góp phần bồi dưỡng, cải thiện trình độ thống kê về chủ nghĩatư bản của các sinh viên, cán bộ thống kê về lĩnh vực này.Thứ hai, đề tài góp phần làm rõ tác động của chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủnghĩa đối với chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay.Thứ ba, kết quả của đề tài là tài liệu tham khảo cho công tác thống kê, giảng dạylý luận về chủ nghĩa tư bản và một vài lĩnh vực kinh tế xã hội khác.Thứ tư, đề tài góp phần cung cấp các luận cứ khoa học và thực tiễn giúp Đảng vàNhà nước đề ra những chính sách phù hợp trong quy trình hội nhập và toàn cầu hóa củanên kinh tế hiện nay.4Chương 1. Học thuyết về chủ nghĩa tư bản độc quyền1.1. Cơ sở hình thànhnghiên cứu chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, C.Mác và Ăngghen đã dự báorằng: tự do cạnh tranh sinh ra tích tụ và tập trung sản xuất, tích tụ và tập trung sản xuấtphát triển đến một mức độ nào đó sẽ kéo theo độc quyền. Và vào cuối thế kỷ XIX đầu thếkỷ XX, chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện do những tác nhân chủ yếu sau:• Sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác dụng của tiến bộ KHKT, làm xuấthiện những ngành sản xuất mới. Ngay từ đầu nó đã là những ngành có trình độtích tụ cao, đó là những xí nghiệp lớn đòi hỏi những hình thức kinh tế tổ chức mới.• Cạnh tranh tự do buộc các nhà TB phải cải tiến kỹ thuật, tăng qui mô tích lũy, mặtkhác còn làm cho những công ty nhỏ có trình độ kỹ thuật kém bị các đối thủmạnh thôn tính, hoặc phải liên kết với nhéu để đứng vững trong cạnh tranh. Vì vậyxuất hiện một số xí nghiệp tư bản lớn nắm địa vị thống trị một ngành hay trongmột số ngành công nghiệp.• Khủng hoảng kinh tế làm cho thường xuyên xí nghiệp nhỏ và vừa bị phá sản. một vài sốngsót phải đổi mới kỹ thuật để thoát khỏi khủng hoảng, do đó thúc đẩy quá trình tậptrung sản xuất. Tín dụng TBCN mở rộng trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tậptrung sản xuất.• Những xí nghiệp và Doanh nghiệp lớn có năng lực kinh tế mạnh mẽ lại tiếp tục cạnhtranh với nhéu ngày càng khốc liệt, khó phân thắng bại, vì vậy phát sinh chiều hướngthỏa hiệp, từ đó hình thành các tổ chức độc quyền.Từ những tác nhân trên, V.I. Lênin khẳng định: ” tự do cạnh tranh đẻra tập trung sản xuất và sự tập trung sản xuất này, khi phát triển tới một mức độ nhấtđịnh, lại dẫn tới độc quyền”.1.2. Những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền1.2.1. Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyềnTích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền là đặcđiểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc.Trong những năm 1900, ở Mỹ, Đức, Anh, Pháp đều có tình hình là các xí nghiệplớn chỉ chiếm khoảng 1% tổng số xí nghiệp nhưng chiếm hơn 3/4 tổng số máy hơi nước5và điện lực, gần một nửa tổng số công nhân và sản xuất ra gần một nửa tổng số danh mục.Sự tích tụ và tập trung sản xuất đến mức cao như vậy đã trực tiếp dẫn đến hình thành cáctổ chức độc quyền. Bởi vì, một mặt, do có một số ít các xí nghiệp lớn nên có thể dễ dàngthoả thuận với nhau; mặt khác, các xí nghiệp có quy mô lớn, kỹ thuật cao nên cạnh tranhsẽ rất gay gắt, quyết liệt, khó đánh bại nhéu, do đó đã dẫn đến khuynh hướng thoả hiệpvới nhéu để nắm độc quyền. Tổ chức độc quyền là tổ chức liên minh giữa các nhà tư bảnlớn để tập trung vào trong tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một vài loại hàng hoá nàođó nhằm mục đích thu được lợi nhuận độc quyền cao. Khi mới bắt đầu quy trình độcquyền hoá, các liên minh độc quyền hình thành theo liên kết ngang, nghĩa là mới chỉ liênkết những Doanh nghiệp trong cùng một ngành, nhưng về sau theo mối liên hệ dâychuyền, các tổ chức độc quyền đã phát triển theo liên kết dọc, mở rộng ra nhiều ngànhkhác nhau. Những hình thức độc quyền cơ bản là: cácten, xanhđica, tờrớt,côngxoócxiom, cônggơlômêrát.Cácten là hình thức tổ chức độc quyền giữa các nhà tư bản ký hiệp nghị thoả thuậnvới nhéu về giá cả, quy mô sản lượng, thị trường tiêu thụ, kỳ hạn thanh toán Các nhà tưbản tham gia cácten vẫn độc lập về sản xuất và thương nghiệp. Họ chỉ cam kết làm đúnghiệp nghị, nếu làm sai sẽ bị phạt tiền theo quy định của hiệp nghị. Vì vậy, cácten là liênminh độc quyền không vững chắc. Trong thường xuyên trường hợp, những thành viên thấy ở vàovị trí bất lợi đã rút ra khỏi cácten, làm cho cácten thường tan vỡ trước kỳ hạn.Xanhđica là cách thức tổ chức độc quyền cao hơn, ổn định hơn cácten. Các xínghiệp tham gia xanhđica vẫn giữ độc lập về sản xuất, chỉ mất độc lập về lưu thông: mọiviệc mua bán do một ban quản trị chung của xanhđica đảm nhận. Mục đích của xanhđicalà thống nhất đầu mối mua và bán để mua nguyên liệu với giá rẻ, bán hàng hoá với giáđắt nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.Tờrớt là một cách thức độc quyền cao hơn cácten và xanhđica, nhằm thống nhất cảviệc sản xuất, tiêu thụ, tài vụ đều do một ban quản trị quản lý. Các nhà tư bản tham giatờrớt trở thành những cổ đông thu lợi nhuận theo số lượng cổ phần.Côngxoócxiom là hình thức tổ chức độc quyền có trình độ và quy mô lớn hơn cáccách thức độc quyền trên. Tham gia côngxoócxiom không chỉ có các nhà tư bản lớn màcòn có cả các xanhđica, tờrớt, thuộc các ngành khác nhéu nhưng liên quan với nhéu vềkinh tế, kỹ thuật. Với kiểu kết nối dọc như vậy, một côngxoócxiom có khả năng có hàng trăm6xí nghiệp liên kết trên cơ sở hoàn toàn phụ thuộc về tài chính vào một nhóm tư bản kếchsù.1.2.2. Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chínhCùng với quy trình tích tụ và tập trung sản xuất, trong công nghiệp cũng diễn raquy trình tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng, dẫn đến hình thành các tổ chức độcquyền trong ngân hàng. Quy luật tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng cũng giốngnhư trong công nghiệp, do quá trình cạnh tranh các ngân hàng vừa và nhỏ bị thôn tính,dẫn đến hình thành những ngân hàng lớn. Khi sản xuất trong ngành công nghiệp tích tụ ởmức độ cao, thì các ngân hàng nhỏ không đủ tiềm lực và uy tín đáp ứng cho công việcbuôn bán của các xí nghiệp công nghiệp lớn. Các tổ chức độc quyền này tìm đến cácngân hàng lớn hơn thích hợp với các điều kiện tài chính và tín dụng của mình. Trong điềukiện đó, các ngân hàng nhỏ phải tự sáp nhập vào các ngân hàng mạnh hơn hoặc phảichấm dứt sự tồn tại của mình trước quy luật khốc liệt của cạnh tranh. quá trình này đãđẩy nhanh các tổ chức độc quyền ngân hàng ra đời.Sự xuất hiện, phát triển của các độc quyền trong ngân hàng đã làm thay đổi ngay quanhệ giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp, làm cho ngân hàng bắt đầu có vai tròmới. Ngân hàng từ chỗ chỉ là kẻ trung gian trong việc thanh toán và tín dụng, nay đã nắmđược hầu hết tư bản tiền tệ của xã hội nên có quyền lực vạn năng, khống chế mọi hoạtđộng của nền kinh tế xã hội tư bản. Dựa trên địa vị người chủ cho vay, độc quyền ngânhàng cử đại diện của nó vào các cơ quan quản lý của độc quyền công nghiệp để theo dõiviệc sử dụng tiền vay, hoặc các tổ chức độc quyền ngân hàng còn trực tiếp đầu tư vàocông nghiệp. Trước sự khống chế và chi phối ngày càng xiết chặt của ngân hàng, một quátrình xâm nhập tương ứng trở lại của các độc quyền công nghiệp vào ngân hàng cũngdiễn ra. Các tổ chức độc quyền công nghiệp cũng tham gia vào công việc của ngân hàngbằng cách mua cổ phần của ngân hàng lớn để chi phối hoạt động của ngân hàng, hoặc lậpngân hàng riêng đáp ứng cho mình. quy trình độc quyền hoá trong công nghiệp và trongngân hàng xoắn xuýt với nhéu và đẩy nhanh lẫn nhau làm phát sinh một thứ tư bản mới, gọilà tư bản tài chính.V.I. Lênin nói: “tư bản tài chính là kết quả của sự hợp nhất giữa tư bản ngân hàngcủa một số ít ngân hàng độc quyền lớn nhất, với tư bản của những liên minh độc quyềncác nhà công nghiệp”7Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ độc quyềnchi phối toàn bộ cuộc sống kinh tế và chính trị của toàn xã hội tư bản gọi là bọn đầu sỏ tàichính.Bọn đầu sỏ tài chính thiết lập sự thống trị của mình thông qua chế độ tham dự.Thực chất của chế độ tham dự là một nhà tài chính lớn, hoặc một tập đoàn tài chính nhờcó số cổ phiếu khống chế mà nắm được một Doanh nghiệp lớn nhất với tư cách là công ty gốc(hay là “công ty mẹ”); Doanh nghiệp này lại mua được cổ phiếu khống chế, thống trị được côngty khác, gọi là “Doanh nghiệp con”; “Doanh nghiệp con” đến lượt nó lại chi phối các “công ty cháu”cũng bằng cách như thế Nhờ có chế độ tham dự và phương pháp tổ chức tập đoàn theokiểu móc xích như vậy, bằng một lượng tư bản đầu tư nhỏ, các nhà tư bản độc quyền tàichính có thể khống chế và điều tiết được một lượng tư bản lớn gấp nhiều lần.Ngoài “chế độ tham dự”, bọn đầu sỏ tài chính còn dùng những thủ đoạn như lậpcông ty mới, phát hành trái khoán, buôn bán công trái, đầu cơ chứng khoán ở sở giaodịch, đầu cơ ruộng đất để thu được lợi nhuận độc quyền cao.Thống trị về kinh tế là cơ sở để bọn đầu sỏ tài chính thống trị về chính trị và cácngoài ra. Về mặt chính trị, bọn đầu sỏ tài chính chi phối mọi hoạt động của các cơ quannhà nước, biến nhà nước tư sản thành công cụ đáp ứng lợi ích cho chúng. Sự thống trị củabọn tài phiệt đã làm phát sinh chủ nghĩa phátxít, chủ nghĩa quân phiệt và nhiều thứ chủnghĩa phản động khác, cùng chạy đua vũ trang gây chiến tranh xâm lược để áp bức, bóclột các nước đang phát triển và chậm phát triển.1.2.3. Xuất khẩu tư bảnV.I. Lênin vạch ra rằng, xuất khẩu hàng hoá là đặc điểm của giai đoạn chủ nghĩatư bản tự do cạnh tranh, còn xuất khẩu tư bản là đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độcquyền.Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu tổng giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước ngoài)nhằm mục đích chiếm đoạt tổng giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác ở các nước nhậpkhẩu tư bản.Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu vì:8• một số ít nước phát triển đã tích lũy được một khối lượng tư bản lớn và có một vài”tư bản thừa” tương đối cần tìm nơi đầu tư có thường xuyên lợi nhuận hơn so với đầu tư ởtrong nước.• nhiều nước lạc hậu về kinh tế bị lôi cuốn vào sự giao lưu kinh tế thế giới nhưnglại rất thiếu tư bản, giá ruộng đất tương đối hạ, tiền lương thấp, nguyên liệu rẻ, nêntỷ suất lợi nhuận cao, rất hấp dẫn đầu tư tư bản.Xuất khẩu tư bản được thực hiện dưới hai cách thức chủ yếu: đầu tư trực tiếp vàđầu tư gián tiếp.• Đầu tư trực tiếp là cách thức xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí nghiệp mớihoặc mua lại những xí nghiệp đang vận hành ở nước nhận đầu tư, biến nó thànhmột chi nhánh của Doanh nghiệp mẹ ở chính quốc. Các xí nghiệp mới hình thành thườngtồn tại dưới dạng hỗn hợp song phương hoặc đa phương, nhưng cũng có những xínghiệp toàn bộ vốn của công ty nước ngoài.• Đầu tư gián tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản dưới dạng cho vay thu lãi. Đó làcách thức xuất khẩu tư bản cho vay.Thực hiện các cách thức xuất khẩu tư bản trên, xét về chủ sở hữu tư bản, có khả năngphân tích thành xuất khẩu tư bản tư nhân và xuất khẩu tư bản nhà nước.• Xuất khẩu tư bản nhà nước là nhà nước tư bản độc quyền sử dụng nguồn vốn từ ngânquỹ của mình, tiền của các tổ chức độc quyền để đầu tư vào nước nhập khẩu tưbản; hoặc viện trợ có hoàn lại hay không hoàn lại để thực hiện những mục tiêu vềkinh tế, chính trị và quân sự.+ Về kinh tế, xuất khẩu tư bản nhà nước thường hướng vào các ngành thuộc kết cấu hạtầng để tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư của tư bản tư nhân. Nhà nước tư bản viện trợkhông hoàn lại cho nước nhập khẩu tư bản để ký được những hiệp định thương mại vàđầu tư có lợi+ Về chính trị, viện trợ của nhà nước tư sản thường nhằm duy trì và bảo vệ chế độ chínhtrị “thân cận” đã bị lung lay ở các nước nhập khẩu tư bản, tăng cường sự phụ thuộc củacác nước đó vào các nước đế quốc, thực hiện chủ nghĩa thực dân mới, tạo điều kiện chotư nhân xuất khẩu tư bản.9+ Về quân sự, viện trợ của tư bản nhà nước nhằm lôi kéo các nước phụ thuộc vào khốiquân sự hoặc buộc các nước nhận viện trợ phải cho các nước xuất khẩu lập căn cứ quânsự trên lãnh thổ của mình• Xuất khẩu tư bản tư nhân là cách thức xuất khẩu do tư bản tư nhân thực hiện. Hìnhthức này có đặc điểm cơ bản là nó thường được đầu tư vào những ngành kinh tế cóvòng quay tư bản ngắn và thu được lợi nhuận độc quyền cao, dưới hình thức cácvận hành cắm nhánh của các công ty xuyên quốc gia.Việc xuất khẩu tư bản là sự mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra nướcngoài, là công cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị, bóc lột, nô dịch của tư bản tàichính trên phạm vi toàn thế giới.1.2.4. Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyềnquy trình tích tụ và tập trung tư bản phát triển, việc xuất khẩu tư bản tăng lên cảvề quy mô và phạm vi tất yếu dẫn tới sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các tậpđoàn tư bản độc quyền và hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế.Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản đã chứng tỏ thị trường trong nước luônluôn gắn với thị trường ngoài nước. Đặc biệt trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền,thị trường ngoài nước còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước đế quốc. Mộtmặt, do lực lượng sản xuất phát triển cao đòi hỏi ngày càng phải có thường xuyên nguồn nguyênliệu và nơi tiêu thụ; mặt khác, do thèm khát lợi nhuận siêu ngạch đẩy nhanh tư bản độcquyền tăng cường bành trướng ra nước ngoài, cần có thị trường ổn định nhiều.V.I.Lênin nhận xét: “Bọn tư sản chia nhau thế giới, không phải do tính độc ác đặc biệtcủa chúng, mà do sự tập trung đã tới mức độ buộc chúng phải đi vào con đường ấy đểkiếm lời”Sự đụng độ trên trường quốc tế giữa các tổ chức độc quyền quốc gia có sức mạnhkinh tế hùng hậu lại được sự ủng hộ của nhà nước “của mình” và các cuộc cạnh tranhkhốc liệt giữa chúng tất yếu kéo theo xu hướng thoả hiệp, ký kết các hiệp định, để củng cốđịa vị độc quyền của chúng trong những lĩnh vực và những thị trường nhất định. Từ đóhình thành các liên minh độc quyền quốc tế dưới dạng cácten, xanhđica, tờrớt quốc tếCho đến năm 1934 đã có 350 cácten quốc tế lớn có tác động sâu sắc đến cuộc sống kinhtế, chính trị của toàn thế giới.101.2.5. Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốcSự phân chia thế giới về kinh tế được củng cố và tăng cường bằng việc phân chiathế giới về lãnh thổ. V.I. Lênin đã cho thấy: “Chủ nghĩa tư bản phát triển càng cao,nguyên liệu càng thiếu thốn, sự cạnh tranh càng gay gắt và việc tìm kiếm các nguồnnguyên liệu trên toàn thế giới càng ráo riết, thì cuộc đấu tranh để chiếm thuộc địa càngquyết liệt hơn”Các cường quốc đế quốc ra sức xâm chiếm thuộc địa, bởi vì thuộc địa là nơi bảođảm nguồn nguyên liệu và thị trường thường xuyên, là nơi tương đối an toàn trong cạnhtranh, bảo đảm thực hiện đồng thời những mục đích về kinh tế, quân sự và chính trị. Từsau năm 1880, những cuộc xâm chiếm thuộc địa bắt đầu phát triển mạnh. Đến cuối thế kỷXIX đầu thế kỷ XX, các nước đế quốc đã hoàn thành việc phân chia lãnh thổ thế giới. Đếquốc Anh chiếm được nhiều thuộc địa nhất, sau đó đến Nga (Nga Hoàng) và Pháp. Sốdân thuộc địa của Anh thường xuyên hơn 12 lần số dân thuộc địa của Nga và bằng 7 lần củaPháp. Số dân thuộc địa của Pháp lại thường xuyên hơn số dân thuộc địa của ba nước Đức, Mỹ,Nhật cộng lại.Sự phân chia lãnh thổ và phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản tất yếu dẫnđến cuộc đấu tranh đòi chia lại thế giới đã chia xong. Đó là nguyên nhân chính kéo theocác cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất 1914-1918 và lần thứ hai 1939-1945.V.I. Lênin viết: “Khi nói đến chính sách thực dân trong thời đại chủ nghĩa đế quốctư bản, thì cần chú ý rằng tư bản tài chính và chính sách quốc tế thích ứng với nó đã tạonên hàng loạt cách thức lệ thuộc có tính chất quá độ của các nước. Tiêu biểu cho thời đạiđó, không chỉ chỉ có hai loại nước chủ yếu: những nước chiếm thuộc địa và nhữngthuộc địa, mà còn có thường xuyên nước phụ thuộc với những hình thức khác nhau, những nướcnày trên hình thức thì được độc lập về chính trị, nhưng thực tế lại mắc vào cái lưới phụthuộc về tài chính và ngoại giao”.Từ những năm 50 của thế kỷ XX trở đi, phong trào giải phóng dân tộc phát triểnmạnh mẽ đã làm sụp đổ và tan rã hệ thống thuộc địa kiểu cũ, nhưng điều đó không cónghĩa là chủ nghĩa thực dân đã bị thủ tiêu. Trái lại, các cường quốc đế quốc chuyển sangthi hành chính sách thực dân mới, mà nội dung chủ yếu của nó là dùng viện trợ kinh tế,11kỹ thuật, quân sự để duy trì sự lệ thuộc của các nước đang phát triển vào các nước đếquốc.Năm đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc có liên quan chặt chẽ vớinhéu, nói lên bản chất của chủ nghĩa đế quốc về mặt kinh tế là sự thống trị của chủ nghĩatư bản độc quyền, về mặt chính trị là hiếu chiến, xâm lược.1.3. Sự hoạt động của quy luật tổng giá trị và quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạnchủ nghĩa tư bản độc quyền1.3.1. Quan hệ giữa độc quyền và cạnh tranhĐộc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do, độc quyền đối lập với cạnh tranh tự do.Nhưng sự xuất hiện của độc quyền không thủ tiêu được cạnh tranh, trái lại nó còn làmcho cạnh tranh trở nên đa dạng, gay gắt và có sức phá hoại to lớn hơn.Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, không chỉ tồn tại sự cạnh tranh giữa nhữngngười sản xuất nhỏ, giữa những nhà tư bản vừa và nhỏ như trong giai đoạn chủ nghĩa tưbản tự do cạnh tranh, mà còn có thêm các loại cạnh tranh sau:- Một là, cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với các xí nghiệp ngoài độcquyền. Các tổ chức độc quyền tìm mọi cách chèn ép, chi phối, thôn tính các xí nghiệpngoài độc quyền bằng thường xuyên biện pháp như: độc chiếm nguồn nguyên liệu, nguồn nhâncông, phương thuận tiện vận tải, tín dụng, hạ giá có hệ thống để đánh bại đối thủ.- Hai là, cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau. Loại cạnh tranh này cónhiều hình thức: cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền trong một ngành, kết thúc bằngmột sự thoả hiệp hoặc bằng sự phá sản của một bên cạnh tranh; cạnh tranh giữa các tổchức độc quyền khác ngành có liên quan với nhéu về nguồn nguyên liệu, kỹ thuật- Ba là, cạnh tranh trong nội bộ các tổ chức độc quyền. Những nhà tư bản tham giaCartel, Syndicate cạnh tranh với nhéu để giành thị trường tiêu thụ có lợi hoặc giành tỷ lệsản xuất cao hơn. Các thành viên của Trust và Consotium cạnh tranh với nhéu để chiếmcổ phiếu khống chế, từ đó chiếm vị thế xã hội lãnh đạo và phân chia lợi nhuận có lợi hơn.1.3.2. Biểu hiện vận hành của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư tronggiai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyềnCác tổ chức độc quyền hình thành do chính sự vận động nội tại của chủ nghĩa tưbản nảy sinh. Độc quyền là biểu hiện mới, mang những quan hệ mới nhưng nó không vượt12ra khỏi các quy luật của chủ nghĩa tư bản, mà chỉ là sự tiếp tục mở rộng, phát triển nhữngxu thế sâu sắc nhất của chủ nghĩa tư bản và của nền sản xuất hàng hoá nói chung, làmcho các quy luật kinh tế của nền sản xuất hàng hoá và của chủ nghĩa tư bản có nhữngbiểu hiện mới.- Do chiếm được vị trí độc quyền nên các tổ chức độc quyền đã áp đặt giá cả độcquyền; giá cả độc quyền thấp khi mua, giá cả độc quyền cao khi bán. tuy nhiên, điều đókhông có nghĩa là trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa quy luật tổng giá trị không còn hoạtđộng. Về thực chất, giá cả độc quyền vẫn không thoát ly và không phủ định cơ sở của nólà tổng giá trị. Các tổ chức độc quyền thi hành chính sách giá cả độc quyền chẳng qua làchiếm đoạt một phần giá trị và giá trị thặng dư của những người khác. Nếu xem xét trongtoàn bộ hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa thì tổng số giá cả vẫn bằng tổng số giá trị. Nhưvậy, nếu như trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh quy luật giá trị biểu hiệnthành quy luật giá cả sản xuất, thì trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa quy luật giá trị biểuhiện thành quy luật giá cả độc quyền.- Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, quy luật tổng giá trị thặng dư biểuhiện thành quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân. Bước sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc,các tổ chức độc quyền thao túng nền kinh tế bằng giá cả độc quyền và thu được lợi nhuậnđộc quyền cao. Vì vậy quy luật lợi nhuận độc quyền cao chỉ là cách thức biểu hiện củaquy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.Nguồn gốc của lợi nhuận độc quyền cao là lao động không công của làm công nhân ởcác xí nghiệp độc quyền; một phần lao động không công của làm công nhân ở các xí nghiệpkhông độc quyền; một phần giá trị thặng dư của các nhà tư bản vừa và nhỏ bị mất đi dothua thiệt trong cuộc cạnh tranh; lao động thặng dư và đôi khi cả một phần lao động tấtyếu của những người sản xuất nhỏ, nhân dân lao động ở các nước tư bản và các nướcthuộc địa, phụ thuộc.Như vậy, sự biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn đế quốc chủnghĩa thành quy luật lợi nhuận độc quyền cao chỉ là sự phản ánh quan hệ thống trị và bóclột của tư bản độc quyền trong tất cả các ngành kinh tế của xã hội tư bản và trên toàn thếgiới.13Chương 2. Học thuyết về chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước2.1. Cơ sở hình thànhChủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một bước phát triển mới của chủ nghĩa tư bảnđộc quyền. Nó ra đời do những nguyên nhân chủ yếu sau đây:- Tích tụ và tập trung tư bản ngày càng lớn, kéo theo tích tụ và tập trung sản xuấtngày càng cao và hình thành những cơ cấu kinh tế to lớn, đòi hỏi phải có sự điềutiết xã hội đối với sản xuất và phân phối, một sự kế hoạch hoá tập trung từ nhànước. Nói cách khác, lực lượng sản xuất xã hội hóa ngày càng phát triển cao hơn,mâu thuẫn gay gắt với cách thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, kéo theo yêucầu khách quan là phải có một cách thức mới của quan hệ sản xuất để lực lượngsản xuất có khả năng tiếp tục phát triển. hình thức mới đó là chủ nghĩa tư bản độc quyềnnhà nước.- Sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một vài ngành màcác tổ chức độc quyền tư bản tư nhân không thể hoặc không muốn buôn bán vìđầu tư lớn, thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận, nhất là các ngành thuộc kết cấu hạtầng như năng lượng, giao thông vận tải, giáo dục, nghiên cứu khoa học cơ bảnmặc khác những ngành này lại cần thiết cho sự phát triển của xã hội. Vì vậy cầnphải có sự đầu tư do nhà nước đảm nhiệm.- Sự thống trị của độc quyền đã làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấpvô sản và nhân dân lao động ngày càng thêm sâu sắc. do đó, cần có chính sáchcủa Nhà nước để xoa dịu, tạm thời hòa hoãn những mâu thuẫn đó như trợ cấp thấtnghiệp, điều tiết mức thu nhập quốc dân, tăng cường phúc lợi xã hội- chiều hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa của đời sống kinh tế cùng với sự bành trướngcủa các liên minh độc quyền quốc tế vấp phải rào cản tư các quốc gia dân tộc vàxung đột lợi ích với các đối thủ trên thị trường thế giới. Tình hình đó đòi hỏi phảicó sự điều tiết của nhà nước đối với các quan hệ chính trị và kinh tế quốc tế.mặt khác, việc thi hành chủ nghĩa thực dân mới, đấu tranh với chủ nghĩa xã hộihiện thực cùng với tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đạicũng đòi hỏi sự can thiệp trực tiếp của nhà nước vào cuộc sống kinh tế.142.2. Biểu hiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước2.2.1 Sự kết hợp về con người giữa các tổ chức độc quyền và bộ máy nhà nướcMột biểu hiện dễ nhận thấy nhất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước làsự kết hợp về mặt nhân sự. V.I Lê nin đã đưa ra một hình ảnh để có khả năng thấy được sựliên minh này như sau: “Hôm nay là bộ trưởng, ngày mai là chủ ngân hàng; hôm naylà chủ ngân hàng, ngày mai là bộ trưởng”. Thấy được tình trạng này, để nhận ra rằng, sựliên minh về mặt nhân sự giữa ngân hàng và công nghiệp đã bước lên nấc thang pháttriển mới bằng việc bổ sung kết hợp nhân sự của chính phủ.Các đảng phái tư sản là cầu nối tạo ra sự kết hợp về mặt con người này.không những tạo ra cơ sở xã hội cho tư bản độc quyền trực tiếp thống trị, xây dựng độingũ công chức cho bộ máy nhà nước. Mà còn nhận sự hỗ trợ của các hội chủ xínghiệp (Hội Công nghiệp toàn quốc Mỹ, Tổng Liên đoàn công nghiệp Italia, Liênđoàn các nhà kinh tế Nhật Bản, Liên minh Liên bang công nghiệp Đức,…), để thamgia vào việc thành lập bộ máy nhà nước, lập ra các ủy ban tư vấn bên cạnh các bộ đểđiều khiển hoạt động của nhà nước theo ý mình. mặt khác, các quan chức và nhânviên chính phủ được cài đặt và giữ các cương vị trọng yếu trong các tổ chức độcquyền.Sự kết hợp này là biểu hiện đầu tiên của mối quan hệ giữa các tổ chức độcquyền và nhà nước nhằm đạt được mục tiêu cốt lõi của chủ nghĩa tư bản tồn tại dướicách thức mới tinh vi hơn.2.2.2 Sự hình thành và phát triển của sở hữu nhà nướcSở hữu tư bản độc quyền mang tính chất tập thể, ủng hộ quyền lợi, lợi ích,duy trì sự tồn tại của tư bản độc quyền được gọi là sở hữu độc quyền nhà nước. Cùngvới sự tăng lên của sở hữu nhà nước trong các tổ chức độc quyền là sự tăng cườngmối quan hệ giữa nhà nước và tư bản độc quyền. Sở hữu nhà nước được hình thànhbằng cách: sử dụng vốn của ngân sách xây dựng các Doanh nghiệp nhà nước, mua cổphần của các Doanh nghiệp tư nhân,… Các công ty nhà nước đã thể hiện đượcvai trò của mình: mở rộng địa bàn, đẩy nhanh sự phát triển của sản xuất tư bản chủnghĩa; góp phần điều tiết kinh tế tư bản chủ nghĩa.15Dưới danh nghĩa là sở hữu xã hội, mặc khác tư bản độc quyền nhà nước vềbản chất vẫn thuộc sở hữu tư bản chủ nghĩa.2.2.3 Sự can thiệp của nhà nước vào các quy trình kinh tếcách thức biểu hiện quan trọng của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước làsự tham gia của nhà nước vào quá trình điều tiết kinh tế. Hệ thống điều tiết của nhànước tư sản bao gồm bộ máy quản lý gắn với hệ thống chính sách, công cụ có khảnăng điều tiết sự vận động của nền kinh tế. Các cách thức của sự điều tiết kinh tế:hướng dẫn, kiểm soát bằng cách công cụ kinh tế, hành chính- pháp lý, đưa ra nhữnggiải pháp chiến lược ngắn và dài hạn.Sự điều tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước thể hiện rõ nétnhất bằng chính sách kinh tế của nhà nước tư sản. Chúng bao gồm nhiều lĩnh vựcnhư chính sách chống khủng hoảng chu kỳ, chống lạm phát, chính sách về tăngtrưởng kinh tế, chính sách xã hội, chính sách kinh tế đối ngoại. Các công cụ chủ yếucủa nhà nước tư sản để điều tiết kinh tế và thực hiện các chính sách kinh tế như ngânsách, thuế, hệ thống tiền tệ – tín dụng, các công ty nhà nước, kế hoạch hoá haychương trình hoá kinh tế và các công cụ hành chính – pháp lý.Tóm lại: Xét về bản chất, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợpchặt chẽ giữa các tổ chức độc quyền tư bản tư nhân với sức mạnh của nhà nước tưsản thành một thiết chế và thể chế thống nhất nhằm phục vụ cho lợi ích của các tổchức độc quyền, mở rộng vai trò kinh tế của Nhà nước và duy trì sự tồn tại của chủnghĩa tư bản. Đây là sự thay đổi cách thức của chủ nghĩa tư bản để thích nghi vớikhó khăn mới, còn bản chất vẫn không thay đổi ngay: vẫn là sự thống trị của giai cấp tưsản và quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.16Chương 3. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của học thuyết về chủ nghĩa tưbản độc quyền đối với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại3.1. Ý nghĩa lý luậnChủ nghĩa tư bản phát triển qua hai giai đoạn: chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranhvà chủ nghĩa tư bản độc quyền mà nấc thang tột cùng của nó là chủ nghĩa tư bản độcquyền nhà nước. Trong suốt quy trình phát triển, chủ nghĩa tư bản đã có những đóng góptích cực đối với sản xuất, đó là:- Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã giải phóng loài người khỏi đêm trường trungcổ của xã hội phong kiến, đoạn tuyệt với nền kinh tế một cách tự nhiên, tự túc, tự cấp chuyển sangphát triển kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa, chuyển sản xuất nhỏ thành sản xuất lớn,hiện đại. Dưới tác động của qui luật giá trị thặng dư và các kinh tế của sản xuất hàng hóa,chủ nghĩa tư bản đã làm tăng năng suất lao động, tạo ra khối lượng danh mục vật chấtkhổng lồ. Điều này đã được khẳng định trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản năm 1848.- Phát triển lực lượng sản xuất: quy trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làmcho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ với trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càngcao: từ kỹ thuật thủ công lên kỹ thuật cơ khí và ngày nay các nước tư bản chủ nghĩa cũngđang là những quốc gia đi đầu trong việc chuyển nền sản xuất của nhân loại từ giai đoạncơ khí hóa sang giai đoạn tự động hóa, tin học hóa và công nghệ hiện đại. Cùng với sựphát triển của kỹ thuật và công nghệ là quá trình giải phóng sức lao động, cải thiện hiệuquả, khám phá và chinh phục thiên nhiên của con người.- Thực hiện xã hội hóa sản xuất: Chủ nghĩa tư bản đã đẩy nhanh nền sản xuất hànghóa phát triển mạnh và đạt tới mức điển hình nhất trong lịch sử, cùng với nó là quá trìnhxã hội hóa sản xuất cả chiều rộng và chiều sâu. Đó là sự phát triển của phân công laođộng xã hội, sản xuất tập trung với qui mô hợp lý, chuyên môn hóa sản xuất và hợp táclao động sâu sắc, mối quan hệ kinh tế giữa các đơn vị, các ngành, các lĩnh vực ngày càngchặt chẽ làm cho các quy trình sản xuất phân tán được kết nối lại và phụ thuộc lẫn nhauthành một hệ thống, thành một quy trình sản xuất xã hội.- Chủ nghĩa tư bản thông qua cuộc cách mạng công nghiệp đã lần đầu tiên biết tổchức lao động theo kiểu công xưởng và Vì vậy đã xây dựng được tác phong công nghiệp17cho người lao động, làm thay đổi nề nếp, thói quen của người lao động sản xuất nhỏtrong xã hội phong kiến.- Chủ nghĩa tư bản lần đầu tiên trong lịch sử đã thiết lập nên nền dân chủ tư sản,nền dân chủ này tuy chưa phải là hoàn hảo song so với thể chế chính trị trong các xã hộiphong kiến, nô lệ vẫn tiến bộ hơn rất nhiều bởi vì nó được xây dựng trên cơ sở thừanhận quyền tự do thân thể của cá nhân.Tóm lại, những thành tựu và đóng góp của chủ nghĩa tư bản đối với sự phát triểncủa nền sản xuất xã hội, là sự chuẩn bị tốt nhất những khó khăn, tiền đề cho sự ra đời củachủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Nhưng bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản lênchủ nghĩa xã hội vẫn phải thông qua các cuộc cách mạng xã hội. Dĩ nhiên, cuộc cáchmạng xã hội sẽ diễn ra bằng phương pháp nào hòa bình hay bạo lực, điều đó hoàn toàntùy thuộc vào những hoàn cảnh lịch sử – cụ thể của từng nước và bối cảnh quốc tế chungtừng thời điểm, vào sự lựa chọn của các lực lượng cách mạng.tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản cũng có những hạn chế nhất định về mặt lịch sử.- Trước hết, về lịch sử ra đời của chủ nghĩa tư bản: như Mác đã phân tích chủnghĩa tư bản ra đời gắn liền với quá trình tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản.Thực chất, đó là quy trình tích lũy tiền tệ nhờ vào những biện pháp ăn cướp, tước đoạtđối với những người sản xuất hàng hóa nhỏ và nông dân tự do; nhờ vào hoạt động buônbán, trao đổi không ngang giá qua đó mà thực hiện bóc lột, nô dịch đối với những nướclạc hậu. Về quá trình tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản, Mác cho rằng, đó là lịchsử đầy máu và bùn nhơ, không giống như một bản tình ca, nó được sử sách ghi chép lạibằng những trang đẫm máu và lửa không bao giờ phai.- Cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản là quan hệ bóc lột của cácnhà tư bản đối với làm công nhân làm thuê, Mặc dù so với các hình thức bóc lột đã từng tồntại trong lịch sử, bóc lột tư bản chủ nghĩa cũng đã là một sự tiến bộ, song theo sự phântích của Mác và Lênin thì chừng nào chủ nghĩa tư bản còn tồn tại thì chừng đó quan hệbóc lột còn tồn tại và sự bất bình đẳng, phân hóa xã hội vẫn là điều không tránh khỏi.- Các cuộc chiến tranh thế giới với mục đích tranh giành thị trường, thuộc địa vàkhu vực tác động đã để lại cho loài người những hậu quả nặng nề: hàng triệu người vôtội đã bị giết hại, sức sản xuất của xã hội bị phá hủy, tốc độ phát triển kinh tế của thế giới18bị kéo lùi lại hàng chục năm. Ngày nay, lại cũng chính chủ nghĩa tư bản là hung thủchâm ngòi nổ cho những xung đột vũ trang giữa các quốc gia, mặc dù nhìn bề ngoài thìtưởng chừng những xung đột đó chỉ đơn thuần bắt nguồn từ những lý do sắc tộc, tôn giáohay nhân quyền. Vì vậy, chi phí cho quân sự của chủ nghĩa tư bản Hiện tại rất lớn, tínhra cứ 2 phút đồng hồ lại có hai triệu đôla bị vứt đi vì chi phí cho quân sự.- Chủ nghĩa tư bản sẽ phải chịu trách nhiệm chính trong việc tạo ra hố ngăn cáchgiữa các nước giàu và các nước nghèo trên thế giới ( thế kỷ 18 chênh lệch là 2,5 lần, hiệnnay là 250 lần). Trong những năm 80 của thế kỷ 20, thế giới thứ ba trì trệ, suy thoái. Điềunày cũng đã được ngân hàng thế giới khẳng định: ở Châu Phi, Mỹ La tinh, hàng trămtriệu người đã nhận thấy, đi cùng với tăng trưởng là sự suy tàn về kinh tế, phát triểnnhường chỗ cho suy thoái: ở một số nước Mỹ La tinh, GDP theo đầu người Hiện tạithấp hơn so với 10 năm trước đây. Ở thường xuyên nước Châu Phi, nó còn thấp hơn cách đây 20năm.một thế giới mà trong đó từ 20 năm nay ở Châu Phi, từ 9 năm này ở Mỹ La tinh mứcsống không ngừng Giảm. trong lúc đó mức sống trong các vùng khác tiếp tục tăng lên,đó là điều hoàn toàn không thể chấp nhận được.Các cường quốc tư bản độc quyền hàng mấy thế kỷ nay đã tăng cường vơ vét tàinguyên, bóc lột làm công nhân các nước nghèo và tìm cách khống chế họ trong vòng phụthuộc thông qua các con đường xuất khẩu tư bản, viện trợ, cho vay kết quả là các nướcnghèo không chỉ bị cạn kiệt về tài nguyên mà còn mắc nợ không trả được, điển hình làcác quốc gia ở Châu Phi, Châu Mỹ La tinh. Ở Braxin phép người ta tính ra riêng số lãi màBraxin phải trả trong năm 1988 bằng 288 triệu xuất lương tối thiểu hay bằng xây nhà cho30 triệu người, trong lúc đó ước tính khoảng 2/3 dân Braxin thiếu ăn.3.2. Ý nghĩa thực tiễnChủ nghĩa tư bản là một hình thái kinh tế – xã hội phát triển cao của xã hội loàingười, xuất hiện đầu tiên tại châu Âu phôi thai và phát triển từ trong lòng xã hội phongkiến châu Âu và chính thức được xác lập như một hình thái xã hội tại Anh và Hà Lan ởthế kỷ thứ 18. Sau cách mạng Pháp cuối thế kỷ 18 hình thái chính trị của nhà nước tư bảnchủ nghĩa dần dần chiếm ưu thế hoàn toàn tại châu Âu và loại bỏ dần hình thái nhà nướccủa chế độ phong kiến, quý tộc. Và sau này hình thái chính trị – kinh tế – xã hội tư bảnchủ nghĩa lan ra khắp châu Âu và thế giới.19Trải qua hơn 500 năm CNTB đã có bốn lần thay đổi ngay lớn. Vào giữa thế kỷ thứXVIII, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ nhất nổ ra, chủ nghĩa tư bản nôngnghiệp và thương nghiệp chuyển thành chủ nghĩa tư bản công nghiệp và tự do cạnh tranh.Cuối thế kỷ thứ XIX, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ hai xuất hiện, chủnghĩa tư bản tự do cạnh tranh chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền. Từ sau cuộckhủng hoảng kinh tế thế giới vào những năm 30 của thế kỷ XX và rõ nhất là sau chiếntranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa tư bản độc quyền chuyển thành chủ nghĩa tư bản độcquyền nhà nước. Bắt đầu từ những năm 80 của thế kỷ XX, sự phát triển mạnh mẽ củacuộc cách mạng khoa học – công nghệ đã kéo theo toàn cầu hóa kinh tế và chủ nghĩa tưbản độc quyền nhà nước chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền xuyên quốc gia.Cùng với sự phát triển của các Doanh nghiệp độc quyền xuyến quốc gia và toàn cầu hóanền kinh tế thế giới, chủ nghĩa tư bản tổ chức ra Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giớivà các thỏa thuận về thuế quan. Do nhu cầu điều chỉnh quan hệ thương mại nên ngay từnăm 1948, các nước tư bản đã tổ chức ra Hiệp định chung về thuế quan (GATT). Sau đó,do tiến trình khu vực hóa được xúc tiến mạnh mẽ nên đã kéo theo sự ra đời của các Cộngđồng kinh tế châu Âu, Khu vực tự do Bắc Mỹ, Diễn đàn kinh tế khu vực châu Á – TháiBình Dương . Tiếp đó, nền kinh tế toàn cầu ngày càng phát triển nhanh và sự ra đời củakinh tế tri thức đã làm phát sinh nhiều mối quan hệ kinh tế thế giới, buộc chủ nghĩa tư bảnđộc quyền xuyên quốc gia phải mở rộng GATT. Bởi thế, năm 1994, WTO ra đời.Trong nền kinh tế toàn cầu hóa, các Doanh nghiệp độc quyền xuyên quốc gia là lựclượng thao túng thị trường thế giới. hiện nay, khoảng 200 Doanh nghiệp xuyên quốc gia đangchiếm 1/3 GDP của thế giới, thâu tóm 70% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), 2/3mậu dịch quốc tế và trên 70% chuyển nhượng kỹ thuật của thế giới.Thực tế trên đây chỉ ra hai thuộc tính cơ bản của toàn cầu hóa kinh tế. Một mặt, nóthể hiện tính tiên tiến của lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa: đẩy nhanh sự phân công laođộng và hợp tác quốc tế để phát triển nền sản xuất xã hội, thúc đẩy sự phụ thuộc lẫn nhéugiữa nền kinh tế các nước. mặt khác, nó thể hiện bản chất của chủ nghĩa tư bản độcquyền xuyên quốc gia: luôn luôn tìm cách mở rộng tư bản ra bên ngoài để tăng cườngbóc lột và truyền bá các quan điểm, giá trị của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.20Rõ ràng, sự phát triển của khoa học, công nghệ đã dẫn đến toàn cầu hóa nền kinhtế thế giới. Nói một cách cụ thể, nó đã buộc chủ nghĩa tư bản độc quyền xuyên quốc giaphải thích nghi bằng cách tổ chức ra các thị trường khu vực, thị trường thế giới, các quỹtiền tệ quốc tế, ngân hàng thế giới để giải quyết các mối quan hệ kinh tế và nhất là đểthao túng thị trường thế giới. Sự ra đời của những tổ chức này có đưa lại thời cơ pháttriển kinh tế cho các nước kém phát triển, nhưng mục đích chính của nó là để tạo ra môitrường thuận lợi cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, hay nói cách khác, để chủ nghĩatư bản chi phối nền kinh tế thế giới. Đó cũng chính là bản chất của thị trường thế giới.nghiên cứu chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước từ lý luận của V.I.Lenin cho đếnnhững biểu hiện mới được cập nhật nêu trên tạo cơ sở để hiểu rõ hơn về vấn đề nội dungcơ bản của thời đại ngày nay: Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hộitrên phạm vi toàn thế giới như một quy trình lịch sử một cách tự nhiên. Chủ nghĩa tư bản với tưcách là một phương thức sản xuất không phải chỉ là một hằng số bất biến. Nó cũng luônvận động trong quá trình tiến hóa của lịch sử thế giới. Nhưng về mặt nhận thức cần phảiquán triệt luận điểm của V.I.Lenin khi ông khẳng định rằng: “Chủ nghĩa tư bản độcquyền – nhà nước tất nhiên và nhất định phải có nghĩa là một bước tiến lên chủ nghĩa xãhội”, và “Chủ nghĩa xã hội không phải là cái gì khác hơn là một bước tiến liền ngay sauchế độ độc quyền tư bản – nhà nước”.Ngày nay, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước tất nhiên đã khác nhiều so vớithời của V.I.Lenin nhưng nó vẫn nằm trong khuôn khổ của phương thức sản xuất tư bảnchủ nghĩa. Tại các nước tư bản chủ nghĩa phát triển nó vẫn tạo ra ngày một nhiều hơn“những tiền đề vật chất” của chủ nghĩa xã hội ngay trong lòng nó.mặc khác, dù có “những tiền đề vật chất” của chủ nghĩa xã hội đến đâu chăng nữacũng không thể xảy ra bất kỳ nơi đâu một quy trình “tự động” chuyển hóa thành chủnghĩa xã hội một khi chính quyền nhà nước vẫn nằm trong tay thiểu số là giai cấp tư sản.Bước chuyển hóa đó sẽ không thể không có sự thay đổi ngay bản chất của chính quyền nhànước. Điều đó xét cho cùng không phân biệt hình thức bạo lực hay phi bạo lực về thựcchất phải là một cuộc cách mạng xã hội.Việt Nam chưa kinh qua chủ nghĩa tư bản, cho nên tất nhiên cũng không thể cóđược “những tiền đề vật chất” của chủ nghĩa xã hội thường xuyên như ở các nước đã có lịch sựphát triển dài lâu của chủ nghĩa tư bản, lại càng thua kém hơn nhiều về những tiền đề vật21chất trong quan hệ so sánh với các nước tư bản phát triển. Nhưng Việt Nam có một ưuthế rất cơ bản là đã giải quyết xong vấn đề hàng đầu của mọi cuộc cách mạng. Đó làgiành chính quyền về tay nhân dân. Điều chưa thể hình dung ra khi nào sẽ có các nước tưbản phát triển Hiện tại. Vấn đề cốt lõi là phải sử dụng chính quyền nhà nước đã có đó đểlàm gì mà chủ nghĩa tư bản chưa kịp làm ở Việt Nam. Tức là công nghiệp hóa, hiện đạihóa đất nước và hội nhập quốc tế. Do vậy, kinh tế nhà nước phải đóng vai trò quan trọngchủ đạo trong nền kinh tế thị trường có thường xuyên thành phần là một tất yếu khách quan đốivới Việt Nam. Những ngành, lĩnh vực có tính chất then chốt đối với nền kinh tế quốc dânmà ở các nước tư bản chủ nghĩa nhà nước phải sở hữu thì ở Việt Nam cũng phải vậy. Bêncạnh đó, những ngành, lĩnh vực có lợi nhuận cao càng cần phải tập trung vào tay nhànước. Đặc biệt là trong khai thác các tài nguyên quốc gia như: dầu khí, các khoáng sản,…không thể để cho tư nhân tự do khai thác như ở các nước tư bản chủ nghĩa.Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con đường có nhiềukhó khăn gấp bội. Những cơ sở vật chất – kỹ thuật, lực lượng lao động mà chế độ cũ tạora trước khi cách mạng thành công tuy không có thường xuyên nhưng càng cần phải coi trọngđúng với tư cách là “những tiền đề vật chất của chủ nghĩa xã hội” để quản lý và dùngtốt hơn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.Trong thời kỳ đổi mới, quan hệ với các nước tư bản chủ nghĩa của Việt Nam cũngđã có rất thường xuyên thay đổi. Đường lối đa phương hóa, phong phú hóa trong quan hệ đối ngoạicủa Đảng đã mở ra bước ngoặc cở bản trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Việt Nam quan hệđầy đủ về mọi mặt ở các tầng nấc: đối tác chiến lược, đối tác toàn diện,… với các nước,không phân biệt chế độ chính trị – xã hội là một hướng đi đúng đắn trong bối cảnh toàncầu hóa, khu vực hóa kinh tế. Việc kế thừa, khai thác các “tiền đề vật chất” thông quacác quan hệ kinh tế quốc tế là hết sức cần thiết. Những gì có lợi cho sự nghiệp xây dựngvà phát triển đất nước có thể có được từ các nước tư bản chủ nghĩa đều đặn cần phải đượcquan tâm, khai thác và sử dụng. Hợp tác với các nước tư bàn chủ nghĩa và các công ty tưbản trên cơ sở cùng có lợi không phải là sự lựa chọn con đường tư bản chủ nghĩa màchính là phương thức xây dựng chủ nghĩa xã hội với sự trợ giúp từ các thành tựu của“nền văn minh tư sản”. Sự kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa trong quà trình phát triểnkhông phải là trở ngại về kinh tế và chính trị cho việc mở rộng sự hợp tác vì phát triểncủa Việt Nam với tất cả các nước tư bản chủ nghĩa. Đó là một thực tế, đang và sẽ tiếp tụcđược chứng minh trong công cuộc đổi mới.2223KẾT LUẬNcó khả năng nói, chủ nghĩa tư bản độc quyền và độc quyền nhà nước là bước phát triểncao hơn của chủ nghĩa tư bản, để có thể tồn tại trước những thay đổi ngay của khó khăn sảnxuất mới. Những thành tựu và hạn chế của chủ nghĩa tư bản bắt nguồn từ mâu thuẫn cơbản của chủ nghĩa tư bản: mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ xã hội hóa cao của lựclượng sản xuất với quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Chủnghĩa tư bản càng phát triển thì xã hội hóa sản xuất ngày càng cao, quan hệ sản xuất dựatrên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất ngày càng kìm hãm sự phát triểncủa lực lượng sản xuất. Chủ nghĩa tư bản đã thực hiện thường xuyên biện pháp điều chỉnh cả vềmặt sở hữu, quản lý và phân phối để Giảm mâu thuẫn trên nhưng về cơ bản không thủtiêu được mâu thuẫn này. Sự điều chỉnh ấy vẫn không vượt qua khỏi khuôn khổ của sởhữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.nghiên cứu chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước từ lý luận của V.I.Lenin cho đếnnhững biểu hiện mới được cập nhật nêu trên tạo cơ sở để hiểu rõ hơn về vấn đề nội dungcơ bản của thời đại ngày nay: Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hộitrên phạm vi toàn thế giới như một quy trình lịch sử một cách tự nhiên. mặc khác, phương thứcsản xuất tư bản chủ nghĩa không thể tự tiêu vong và phương thức sản xuất cộng sản chủnghĩa cũng không thể tự hình thành mà chỉ có thể thực hiện được thông qua cuộc cáchmạng xã hội trong đó giai cấp làm công nhân là người có sứ mệnh lịch sử thực hiện cuộc cáchmạng này.24TÀI LIỆU THAM KHẢO1. V.I.Lênin, 1978. Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản, Tập27, Nxb Tiến bộ2. Nguyễn Khắc Thân, 1996. Chủ nghĩa tư bản đương đại-Mâu thuẫn và vấn đề, NxbChính trị Quốc gia.3. Viện Thông tin Khoa học Xã hội, 2001. Chủ nghĩa tư bản hịên đại -Những điềuchỉnh mới.4. Tiêu Phong, 2004. Hai chủ nghĩa một trăm năm, Nxb Chính trị Quốc gia.5. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ môn khoahọc Mác – Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, 2005. Giáo trình Kinh tế học Chínhtrị Mác – Lê nin, Nxb Chính trị Quốc gia.25