Xin lưu ý đây là đại
cương của các sao. Cần xem kỹ các vị trí sao (miếu hay bại, vượng
hay đắc), các hành của sao, các bộ sao, học thuộc lòng các câu
phú.vv. Xem bài viết phía dước (vài bài).1/ Quý tinh (12): Tử vi- Thái dương – Thiên mã –
Long trì – Phượng các – Thiên khôi – Thiên việt – Ân Quang – Thiên
quý – Tấu thư – Tam thai – Bát toạ. 2/ Quyền tinh (7) : Thiên tướng – Thất sát – Hoá
quyền – Tướng quân – Quốc ấn – Phong cáo – Quan đớị 3/ Tài tinh (6): Vũ khúc – Thiên phủ – Thái âm –
Lộc tồn – Hoá lộc – Lưu niên văn tinh. 4/ Văn tinh (7) : Hoá khoa – Văn xương – Văn khúc
– Thiên khôi – Thiên việt – Thai phụ – Phong cáọ 5/ Hỷ tinh (3): Thiên hỷ – Hỷ thần – Thanh
long. 6/ Thọ tinh (6): Thiên cơ – Thiên lương – Thiên
đồng – Thiên thọ – Tràng sinh – Đế vượng. 7/ Phúc, Giải tinh (22): Thiên cơ – Thiên lương –
Thiên đồng – Hoá khoa – Thiên khôi – Thiên việt – Ân quang – Thiên
quý – Thiên quan – Thiên phúc – Thiên giải – Địa giải – Giải thần –
Thiên đức – Phúc đức – Long đức – Nguyệt đức – Tràng sinh – Đẩu
quân – Thiên thọ – Thiếu âm – Thiếu dương. 8/ Hung tinh (11): Phá quân – Thiên không – Địa
không – Địa kiếp – Kình dương – Đà la – Hoả tinh – Linh tinh – Kiếp
sát – Lưu hà – Phá toáị Hung sát tinh chủ về tai hoạ, cường độ ảnh
hưởng nặng nhẹ tuỳ đắc hãm đại và hội tụ nhiều ít. 9/ Bại tinh (13): Tang môn – Bạch hổ – Thiên khốc
– Thiên hư – Đại hao – Tiểu hao – Cô thần – Quả tú – Suy – Bệnh –
Tử – Mộ – Tuyệt. Hai bại tinh chủ về phá tán, gây hình thương, bệnh
tật, lo buồn, tang tóc, mất mát…nếu đi với các sát tinh khác ảnh
hưởng xấu càng tăng. 10/ Ám tinh (3): Cự môn – Hoá kỵ – Thiên riêu Ám
tinh hay Kỵ tinh chủ về che lấp, ngăn trở, bế tắc, làm giảm sự
quang minh của các sao tốt. 11/ Hình tinh (5): Liêm trinh – Thái tuế – Thiên
hình – Quan phù – Tuế phá. Hình tinh chủ về hình ngục, kiện
tụng. 12/ Dâm tinh:(6): Tham lang – Đào hoa – Hồng loan
– Thiên riêu – Mộc dục – Thaị 13/ Trợ tinh (5): Tả phù – Hữu bật – Tuần – Triệt
– Thiên tàị Sao trung lập, trợ tốt cũng như xấu . (Theo Tử vi) ===Đọc thêm:Vận Dụng Ngũ
Hành Sinh Khắc khi giải Tử Vi A’p dụng ngũ hành trong luận giải. Hảm hay đắc của
sao thì không có liên quan đến hành khí của sao mà chỉ liên quan
đến tính chất xấu hay tốt mà sao đem lạị Sao đắc hảm tại các vị trí
khắc nhau, và tuỳ theo tính chất đắc vượng miếu hay hảm mà mang ý
nghiã khắc nhau. Ý nghiã xấu tốt của sao không thể thay đổi, trừ
khi gặp Tuần hay Triệt. Một sao đã hảm địa không thể trở nên đắc
địa cho dù hành khí của sao có thay đổi do tương quan sinh khắc
giữa sao với các sao khác hay với Mệnh và cung. Còn hành khí của sao có thịnh lên hay giảm xuống
thì căn cứ vào tương quan giữa hành sao với các sao khác, hành sao
với và hành cung, hành sao và hành Mệnh. Khi hành khí của sao thịnh
lên thì ảnh hưỡng tốt xấu của sao được phát huy mạnh mẽ hơn, nhưng
bản chất xấu tốt của sao vẫn giữ nguyên vẹn. Khi hành khí của sao
bị suy giảm thì ảnh hưỡng xấu tốt của sao sẻ bị suy yếu đi, nhưng
tính chất xấu tốt của sao vẫn không thể thay đổ. Tóm lại đắc hảm
của sao nói về tính chất của sao, còn hành khí của sao thịnh hay
suy nói về cường độ ảnh hưỡng mạnh hay yếu. Cát tinh sáng sủa thì thường mang tính chất tốt.
Càng sáng thì thông thường càng có nhiều tính chất tốt. Cát tinh
hảm địa thì mang tính chất xấu. Xấu nhưng không quá xấu vì là cát
tinh, là sao chủ yếu mang đến điều tốt lành. Hung tinh thường mang ý nghiã xấu hung hãn, gây
tai họạ Hung tinh đắc địa thì tuy có mang tính chất tốt nhưng không
trọn vẹn như cát tinh vì cũng còn có tính chất xấu đi kèm. Hung
tinh hảm địa thì ý nghiã xấu càng trở nên mãnh liệt. Sao an theo năm (theo Can, Chi) thì có tác dụng
lâu dài bền bỉ. Sao an theo tháng thì tác dụng cũng ngắn hơn, còn
sao an theo giờ thì phát huy nhanh chóng tạm thờị Khi luận giải, phải lấy hành bản Mệnh làm gốc để
luận đoán. Có bốn nguyên tắc được sắp xếp theo thứ tự quan
trọng cần để ý. NGUYÊN TẮC THỨ
NHẤT: Đây là nguyên tắc quan trọng nhất, xét tương quan
giữa hành sao và hành Mệnh. Hành Mệnh là hành của năm, nghiã là lấy
hành khí đang cực thịnh của năm làm chủ. Năm Mộc thì khi ấy Mộc
phải vượng không thể yếu được. Xét sự sinh khắc giữa hai hành thì
căn cứ vào câu phú sau: Đồng sinh thì Vượng (cùng một hành khi gặp nhau
thì Vượng, cả hai hành đều mạnh lên, hưng thịnh lên). Sinh ngã thì Tướng (gặp hành khắc sinh ra ta (ngã)
thì ta Tướng, ta tốt lên nhiều phần). Ngã sinh thì Hưu (ta sinh cho hành khắc thì không
thành, không tăng, không hưng thịnh lên mà lại giảm, bị suy yếu,
hao tổn, ta không được lợi gì, vô dụng). Ngã khắc thì Tù (ta khắc hành khác thì ta tù,
nghiã là bị giam cầm, bó tay không hoạt động). Khắc ngã thì Tử (ta gặp hành khắc ta thì ta
chết). Vận dụng qui luật sinh khắc này vào sự sinh khắc
giữa hành sao và hành Mệnh ta có: 1)Hành sao sinh hành
Mệnh: hành sao bị hao tổn, bị giảm (Hưu) nên ảnh hưỡng xấu
tốt của sao bị yếu đị Mệnh được hưng vượng lên (Tướng) chứng tỏ
Mệnh được sao phu sinh, nghiã là sao làm lợi cho Mệnh cho dù là cát
tinh hay hưng tinh. Nếu là cát tinh sáng sủa thì đưa đến lợi ích trọn
vẹn cho Mệnh. Nếu là cát tinh lạc hảm thì do sao có tính chất xấu
nên Mệnh tuy cũng hưỡng lợi ích nhưng không toàn vẹn. Nếu là hung
tinh sáng sủa thì các tính chất tốt xấu của nó cũng khiến bản Mệnh
hưng thịnh. Nếu là hung tinh lạc hảm thì cũng ít bị nguy hại hơn vì
hành sao bị hao tổn nên phát huy yếu ảnh hưỡng xấu của nó, trong
khi bản Mệnh lại được hưng thịnh. Cho dù gặp sao xấu hay tốt, bản
Mệnh vẫn vững vàng hưng thịnh lên vì bản Mệnh được sinh nhập
(Tướng). Do đó người ta thường nói hành sao sinh hành Mệnh thì tốt.
Người có hành sao sinh hành Mệnh là người được sao trợ giúp, sao
không thể tác họa mạnh đến bản Mệnh. 2)Hành sao đồng hành với
hành Mệnh: cả hai đều được hưng vượng lên (Vượng). Mọi ảnh
hưỡng tốt xấu của sao lên Mệnh đều hưỡng trọn vẹn. Cát tinh hay
hung tinh vẫn phát huy mạnh mẽ hơn ảnh hưỡng của chúng. Tuy nhiên
bản Mệnh vẫn được on có vì hành khí của bản Mệnh được hưng thịnh
lên, nghiã là sao đó thuộc về mình, mình hoàn toàn chủ động, Mệnh
mang những đặc tính của saọ Do đó hành sao đồng hành với bản Mệnh
thì tốt nhất, Mệnh chỉ huy được sao một cách trọn vẹn. 3)Hành Mệnh sinh hành
sao: hành khí của sao hưng thịnh lên (Tướng), trong khi đó
bản Mệnh bị hao tổn (Hưu). Hành khí của sao hưng thịnh lên nhưng
không có lợi ích gì cho bản Mệnh vì bản Mệnh bị suy tổn. Cho dù cát
tinh sáng sủa đi chăng nữa cũng không đem lại lợi ích cho Mệnh mà
còn làm cho Mệnh bị hao tổn khi sao phát huy tính chất của nó. Hung
tinh lạc hảm khi phát huy tính chất của nó thì còn gây bất lợi cho
Mệnh nhiều hơn do các tính chất xấu của nó. Do đó Mệnh không chỉ
huy được sao, bị hao tổn do các ảnh hưỡng xấu tốt của sao gây rạ
4)Hành sao khắc hành Mệnh: hành khí
của sao vẫn giữ nguyên, nhưng bị giam cầm bó tay không hoạt động
được (Tù). Bản Mệnh bị hao tổn, thiệt hại rất nhiều (Tủ), bị chết,
có nghiã là gây nhiều điều bất lợi đến cho bản Mệnh. Cho dù cát
tinh miếu vượng thì mọi tính chất tốt đẹp của sao cũng làm cho Mệnh
bị mệt mõi, tuy là cát nhưng lại không đem điều gì tốt lành đến
Mệnh. Tuy nhiên vì là cát tinh nên điều tai hại mang đến cũng đở lọ
Còn nếu là hung tinh thì thật là bất lợi cho Mệnh. Nếu là hung tinh
đắc địa thì các tính chất tốt xấu lẫn lộn của nó cũng làm bản Mệnh
bị nguy hạị Nếu là hung tinh hảm địa thì tính chất xấu của nó càng
làm bản Mệnh càng thêm bị nguy hạị Hung tinh lạc hảm khắc hành bản
Mệnh dễ mang lại tai họa cho Mệnh nhất. Do đó hành sao khắc hành
Mệnh thì xấu nhất vì sao hoàn toàn chủ động gây bất lợi cho bản
Mệnh, cho dù là cát tinh. 5)Hành Mệnh khắc hành
sao: hành sao bị tổn hại suy yếu, bị chết (Tủ) nên cường
độ ảnh hưỡng xấu tốt của sao bị giảm rất nhiều trong khi Bản Mệnh
bị giam cầm bó tay không hoạt động được (Tù), nghiã là Mệnh không
chỉ huy sao, không coi sao đó là thuộc về mình. Nếu là cát tinh
sáng sủa thì cũng không mang đến điều lợi cho Mệnh là baọ Nếu là
cát tinh hảm địa thì Mệnh cũng ít chịu ảnh hưỡng tính chất xấu của
saọ Nếu là hung tinh đắc địa thì tính chất đắc của hung tinh bị suy
giảm nhiều nên phát huy tác dụng rất yếu, thành ra Mệnh cũng hưỡng
ít tính chất xấu tốt lẫn lộn của saọ Còn nếu là hung tinh lạc hảm
thì tính chất xấu của hung tinh bị yếu đi nhiều do đó Mệnh rất ít
bị ảnh hưỡng hơn. Do đó hành Mệnh khắc thắng hành sao (khắc xuất)
thì ảnh hưỡng xấu tốt của sao lên Mệnh không còn là bao do hành sao
bị suy yếu rất nhiều trong khi hành Mệnh bị giam cầm không hoạt
động được. Vi dụ: Vũ Khúc là tài tinh, hành
Kim. Vũ Khúc sáng sủạ Mệnh Kim và
Thuỷ thì tiền bạc tốt, mệnh Hỏa thì không hưỡng là bao,
Mệnh Mộc thì tuy có hưỡng tiền bạc nhưng lại khiến cho Mệnh bị mệt
mõi vì tiền bạc, Mệnh Thổ thì tiền bạc chỉ đem tai hại đến bản
Mệnh. Không Kiếp hành Hỏạ Không Kiếp đắc địa, chủ bạo phát bạo tàn. Mệnh Hỏa
bạo phát bạo tàn. Mệnh Thổ phát ít đi nhưng cũng ít suy hơn vì bản
Mệnh được hưng thịnh lên. Mệnh Mộc thì phát mạnh nhưng không ích gì
cho Mệnh, bạo tàn. Mệnh Kim thì việc phát đem tai họa đến cho Mệnh.
Mệnh Thuỷ thì phát ít hơn so với các Mệnh khắc nhưng tai hại đem
đến cho Mệnh cũng không có là baọ Không Kiếp hảm địa, chủ hung họạ Mệnh Hỏa ít bị
nguy hạị Mệnh Thổ ít bị nguy hại nhất. Mệnh Mộc thì bị nguy hạị
Mệnh Kim bị hung họa nhiều nhất. Mệnh Thuỷ thì ít bị nguy hại
nhất. NGUYÊN TẮC THỨ
HAI: xét tương quan giữa hành Mệnh và hành cung để xét
đoán Mệnh thịnh hay suỵ Mệnh thịnh thì tốt, điều xấu có xãy ra cũng
dễ thoát khỏị Mệnh suy thì xấu, điều xấu xãy ra khó thoát khỏi tai
ương họa hạị Hành cung sinh hành
Mệnh: hành bản Mệnh hưng thịnh nên tốt nhất
(Tướng). Hành cung hòa hành Mệnh:
hành bản Mệnh hưng thịnh lên nên tốt (Vượng). Hành cung khắc hành
Mệnh: hành bản Mệnh bị suy tổn nên xấu nhất (Tử). Mệnh khắc hành cung:
hành bản Mệnh tuy khắc tháng nhưng bản Mệnh không được lợi ích gì
cả, bị giam cầm không hoạt động được (Tù). Mệnh sinh hành cung:
hành bản Mệnh bị tiết khí hao tán nên xấu (Hưu). Cần chú ý hành Mệnh ta nên đi sau phân biệt là Âm
hay Dương. Ví dụ Dương Mộc là hành Mộc đang thịnh, nếu sinh xuất
cho cung thì cũng đở xấu hơn Âm Mộc. Hơn nữa, hành cung cũng có Âm
Dương. Nếu Mộc Mệnh sinh xuất cho cung Ngọ Dương Hỏa thì Mệnh bị
tổn hại nhiều hơn là sinh xuất cho Âm Hỏạ NGUYÊN TẮC THỨ BA:
xét tương quan giữa hành của tam hợp cục của cung an Mệnh (THCM)
với hành bản Mệnh. Phải lấy hành bản Mệnh làm gốc. THCM sinh hành Mệnh: hành bản Mệnh hưng thịnh
(Tướng) nên tốt nhất. THCM hòa hành Mệnh: hành bản Mệnh hưng thịnh lên
(Vượng) nên tốt. THCM khắc hành Mệnh: hành bản Mệnh bị suy tổn
nhiều, bị chết (Tủ) nên xấu nhất. Mệnh khắc hành THCM: hành bản Mệnh tuy khắc thắng
nhưng chẳng được lợi ích gì cả vì Mệnh bị bó tay, không hoạt động
được (Tù). Mệnh sinh hành THCM: hành bản Mệnh bị tiết khí hao
tán (Hưu) nên xấụ Ví dụ: Mạng Thuỷ, Mệnh cư Tí có Phá Quân Thuỷ thì hay hơn
Mệnh cư Ngọ vì tam hợp Thân Tí Thìn thuộc Thuỷ, còn tam hợp Dần Ngọ
Tuất thuộc Hỏạ Thất Sát Kim miếu tại Dần Thân, Mạng Kim tốt hơn
mạng Mộc vì nguyên tắc thứ nhất quan trọng hơn nguyên tắc thứ bạ
Mạng Kim thì hành sao đồng hành với Mệnh, nhưng THCM khắc bản Mệnh.
Mạnh Mộc thì hành sao khắc Mệnh nhưng được THCM sinh bản Mệnh cũng
đở phần nàọ Không Kiếp miếu địa tại Tỵ Hợị Tại Tỵ thì tốt hơn
tại Hợi tuy cung miếu địa nhu nhau vì hành cung đồng hành với hành
saọ Nếu Mệnh là Thổ hay Hỏa thì hưỡng mạnh nhất nghiã là phát rất
nhanh và mạnh, lên nhanh xuống nhanh. Mệnh Kim thì sự phát trợ nên
vô dụng vì Hỏa khắc Kim nên bản mệnh bị hao tổn. Hành Mộc thì cũng
phát mạnh mẽ nhưng khó tránh sự thăng trầm tai họa vì Mệnh bị tiết
khí. Hành Thuỷ thì hưỡng sự phát ít nhưng phá ít đi vì Thuỷ khắc
Hỏạ Thất Sát miếu địa tại Dần bị Tuần, Kim Mệnh, người
Dương Nam. Do bị Tuần áp đảo mạnh mẽ đến 80% sau 30 tuổi, sao Kim
lại kỵ Tuần nên các ý nghiã tốt của Thất Sát bị đão ý nghiã. Do
Mạng Kim đồng hành với hành sao nên người mạng Kim sẻ hưỡng trọn
vẹn tính chất xấu của Thất Sát bị Tuần. Nếu là Hỏa Mệnh thì Hỏa
Khắc Kim, thì ý nghiã xấu của Thất Sát bị Tuần trợ nên ít đị NGUYÊN TẮC THỨ
TƯ: xét tương quan giữa hành cung với hành saọ Nguyên tắc
này tương đối không quan trọng, chỉ mạng ý nghiã gia giảm chút
đỉnh. Các sao đắc hảm không phụ thuộc vào ngũ hành của
cung mà phụ thuộc vào vị trí của nó trên thiên bàn và sự phối chiếu
hay đồng cung với sao khác. Do đó cần xem xét sự tương quan sinh
khắc giữa hành sao và hành cung để coi sức phát huy ảnh hưỡng của
sao như thể nàọ Hành của sao phải thịnh thì ảnh hưỡng tốt hay xấu
mới phát huy trọn vẹn. Luôn luôn lấy hành cung làm gốc để luận đoán
vì hành cung là dat hay địa thể mà sao lâm vàọ Cho dù hành sao có
như thế nào cũng không thể làm suy yếu hành cung hay nói khắc đi
hành cung là nói hành khí nơi nó vượng nhất, như Dần Mão thuộc Mộc
thì cung Dần và Mão là nơi Mộc vượng. Sao Mộc ở đó thì hành khí
không bị thay đổị Khi Mộc Vượng thì Hỏa Tướng, như vậy hành khí sao
Hỏa được hưng thịnh. Mộc vượng thì Thuỷ Hưu, sao Thuỷ bị suy yếu ở
sinh xuất cho cung. Mộc vượng thì Kim Tử, sao Kim trợ nên vô dụng
vì thế Mộc quá thịnh nên Kim không thể khắc nổi, chứng tỏ hành Kim
không được mạnh. Mộc vượng thì Thổ Tủ. Sao Thổ không thể hưng thịnh
vì bị hành Mộc đang thịnh khắc mạnh. Như vậy: Hành cung sinh hành sao: hành sao được hưng thịnh
(Tướng). Hành cung đồng hành với sao: hành sao không thay
đổi (Vượng). Hành sao sinh hành cung: hành sao bị hao tổn, tiết
khí nên yếu đi (Hưu). Hành sao khắc hành cung: hành sao tuy khắc thắng
nhưng không có lợi gì vì bị giam cầm không hoạt động được (Tử). Hành cung khắc hành sao: hành sao bị thiệt hại
nhiều nhất (Tủ). Cần chú ý là Dần Mão tuy thuộc Mộc nhưng có khác
biệt. Dần là Dương Mộc, Mão là Âm Mộc. Dương chủ thịnh, Âm chủ suỵ
Dương Mộc là Mộc đang phát triển cực thịnh, còn Âm Mộc là Mộc đã
bước vào giai đoạn suy yếụ Như vậy sao Thổ cư cung Dần bị khắc mạnh
hơn sao Thổ cư Mãọ Ví dụ: Phá Quân là hao tinh, hảm tại Dần Thân. Tại Dần
thì Phá Quân Thuỷ sinh hành cung là Mộc, tại Thân thì Phá Quân Thuỷ
được hành cung sinh. Như vậy tại Thân Phá Quân giữ nguyên vẹn ảnh
hưỡng hảm địa của nó, còn tại Dần thì bản chất hao tán có bị yếu đi
vì sao đó sinh xuất cho cung nên hành khí bị hao tổn. Tử Phủ miếu tại Dần Thân. Tại Dần thì hành cung
khắc hành sao đưa đến hành khí của sao bị hao tổn. Tại Thân thì
hành sao sinh hành cung nên hành sao bị tiết khí. Như vậy tại Dần,
tính chất miếu địa của Tử Phủ phát huy yếu đi, sao bị không chế khả
năng hoạt động, còn tại Thân thì hành sao bị suy tổn làm suy yếu
khả năng hoạt động. Phá Quân miếu địa tại Tí Ngọ. Tại Tí thì hành cung
đồng hành với hành sao, tính chất miếu địa của sao hoàn toàn không
thay đổi do hành khí của sao vẫn nguyên vẹn. Tại Ngọ thì hành sao
sinh hành cung, tính chất miếu địa không phát huy trọn vẹn ảnh
hưỡng vì hành sao bị hao tổn. Phá Quân đắc tại Thìn Tuất, hành cung khắc hành
sao, tính chất của sao bị suy giảm do hành sao bị suy yếụ Vũ Phá đồng cung tại Tỵ Hợi và hảm địạ Tại Tỵ thì
Vũ Khúc bị hành cung khắc, Phá Quân thì khắc hành cung, do đó hành
của Vũ bị suy đi, còn tại Hợi thì Vũ sinh xuất cho cung, Phá Quân
đồng hành. Do Vũ Khúc Kim sinh cho Phá Quân Thuỷ nên hành khí của
Phá Quân tại Hợi mạnh hơn Phá Quân tại Tỵ. Ví dụ người Kim mệnh thì
hưỡng mạnh sao Kim là Vũ Khúc. Nếu Mệnh cư Hợi thì sẻ bị hao tán
tiền bạc bởi vì Vũ khuc là tài tinh, Phá Quân là hao tinh. Kim sanh
Thuỷ đưa đến bản chất hao tán của Phá Quân càng tăng thêm. Phá Quân
có hành khí mạnh thì sẻ hao nhiều hơn. Thất Sát miếu tại Dần Thân. Tại Dần và Thân thì
hành khí của Thất Sát đều nguyên vẹn. Mệnh Thổ cư Dần thì bị hành
cung khắc, đồng thời hành Mệnh lại sinh xuất hành sao, Mệnh bị tiết
khí. Như vậy thì Mệnh Thổ tuy vẫn hưỡng tính chất của Thất Sát
nhưng không có lợi cho bản Mệnh, và Thất Sát ở đây lại càng thịnh
vượng. Tại Thân thì Mệnh Thổ lại càng hao tán do sinh xuất hành
cung và hành saọ Do hành khí của Thất Sát được hưng thịnh lên nên
tính chất của Thất Sát ở đây phát huy mạnh mẽ hơn nhưng không đem
lại ích lợi cho bản Mệnh, làm bản Mệnh tổn hại dễ bị lâm nguy khi
vào hạn xấụ Trường hợp Mạng Mộc thì do Kim khắc Mộc, nếu Mệnh cư
cung Dần thì ảnh hưỡng của Thất Sát vẫn nguyên vẹn nhưng đưa đến
bất lợi cho Mệnh. Trong tử vi còn có một sự hòa hợp hay đối kháng
giữa các sao về tính chất, khác hẳn với sự sinh khắc về ngũ hành.
Ví dụ: Văn tinh thì nên gặp Văn tinh, gặp Võ tinh thì không có lợị
Điều này cũng đúng vì con người nếu thuận một tính, hoặc thuần hậu
ôn nhu, hoặc mạnh bạo cương quyết thìdễ thành công hơn người tính
tình nữa nạc nữa mỡ. Bởi thể nên các bộ sao Văn tinh như Cơ Nguyệt
Đồng Lương thì cần có các sao Văn tinh hổ trợ cho nó như Xương
Khúc, Khoạ Bộ Sát Phá Liêm Tham thì cần các sao cứng cỏi mạnh bạo
hổ trợ như Lục Sát Tinh đắc địạ Bộ Tử Phủ Vũ Tướng rất kỵ gặp Không
Kiếp vì Không Kiếp là sao hung tinh đứng đầu phụ tinh, chủ nóng nãy
làm liều, đi với Tử Phủ Vũ Tướng thì chỉ gây ra điều bất lành vì
tính của Tử Phủ là thuần hậu ôn nhụ Điểm cần chú ý là sự đối kháng
về tính chất thì quan trọng hơn sự sinh khắc về ngũ hành. Không
Kiếp hành Hỏa đương nhiên sẻ tương sinh với Tử Phủ hành Thổ, nhưng
khi đứng cùng với Tử Phủ lại làm xấu bộ Tử Phủ. Phá Quân sáng sủa
nắm được Không Kiếp là do tính chất của nó là hung, đi với sao hung
thì có lợị Phá Quân hành Thuỷ khắc được hành Hỏa của Không Kiếp
khiến Không Kiếp bị thu phục. Thất Sát võ tinh mà đi với Xương Khúc
văn tinh, hay đi với Đào Hồng thì chẳng ra gì. Ngược lại Nhật
Nguyệt gặp Đào Hồng Hỉ Xương Khúc thì lại thêm tốt. Hơn nữa Hóa
Khoa là đệ nhất giải thần vì chế hóa được các sao hành Hỏa như
Không Kiếp Hỏa Linh, Kình Đà(hành Kim đới Hỏa). Tính tình của con
người cũng thay đổi theo đại hạn. Mệnh Sát Phá Liêm Tham mà đại hạn
gặp Cơ Nguyệt Đồng Lương thì tính tình trở nên mềm yếu, hay thay
đổi, thiếu cương quyết thì làm sao mà phát mạnh được. Nếu đại hạn
gặp sao Lục Sát Tinh đắc địa thì vì gặp sao cùng phe nên phát mạnh
bạo là điều đương nhiên. CHÚ Ý XEM XÉT NGŨ HÀNH BẢN
MỆNH THEO MÙA Xem hạn thì cần xem trước nhất. Tuy nhiên khi xem
xong, điều xấu tốt nên cân nhắc gia giảm một chút trong bối cảnh
của Mùạ Mùa Xuân hành Mộc, Hạ hành Hỏa, Thu hành Kim, Đông
hành Thuỷ, Tứ Quí hành Thổ. Khi xét thì cũng sử dụng nguyên tác xét
sinh khắc ngũ hành giữa Mùa với hành bản Mệnh. Lấy ngũ hành bản
Mệnh làm chủ để xét đoán. Ví dụ mùa Xuân hành Mộc. Nếu thấy tai họa xãy ra
vào mùa Xuân thì nếu là Mệnh Kim thì tai họa sẻ xãy ra chắc chắn,
nhưng nếu thấy hành Mộc thì bản Mệnh cũng có phần được cứu giải một
chút. NHẬN ĐỊNH VỀ HÀNH CỦA MỆNH
VÀ CỤC VÀ TƯƠNG QUAN XUNG KHẮC Hành bản Mệnh là hành của năm sinh.
Mọi năm tháng ngày giờ đều có hành của nó, và Tử Vi chọn hành của
năm sinh làm hành bản Mệnh. Hành của Cục là hành của
tháng mà cung Mệnh được an trên là số. Ví dụ Mệnh an vào cung Dậu
thì tháng Dậu là tháng 8. Tùy theo Can của năm, ta có thể tính toán
được hành của tháng căn cứ vào nguyên tắc Ngũ Dần, và từ đó tính ra
hành của Cục. Trong tử vi người ta thường
tính sinh khắc giữa hành của Bản Mệnh với hành của Cục, mà thực
chất là tính sự sinh khắc giữa hành của năm và hành của tháng. Khi
tính sinh khắc giữa hành của Năm và hành của Tháng, thì đương nhiên
hành của năm phải được chọn làm gốc vì năm ấy hành khí đang thịnh
nhất đứng vai trợ chủ đạo, hành tháng là phụ thuộc. Như vậy thì
phải lấy hành Bản Mệnh làm gốc để tính toán. Hành Mệnh và hành Cục đồng
hành: cả hai hành đều được hưng vượng lên (Vượng) nên
tốt. Hành Cục sinh hành Mệnh:
hành Mệnh được hưng thịnh lên (Tướng) nên tốt. Hành Mệnh sinh hành Cục:
hành Mệnh bị suy yếu (Hưu) trong đó hành Cục được hưng thịnh
(Tướng) nên không tốt cho bản Mệnh, xấụ Hành Mệnh khắc hành Cục:
hành Mệnh bị giam cầm bó tay không hoạt động được (Tù) nhưng không
có hại, trung bình. Sự sinh khắc trên đây là sự
sinh khắc của ngũ hành chính. |