Thi khúc và nhạc khúc “Ngậm Ngùi” (Huy Cận – Phạm
Duy) – Nỗi đau của người anh trai thương em bằng trái tim của
mẹ
Home Bài viết Cảm xúc âm nhạc
Lúc sinh thời, nhạc sĩ Phạm Duy có lần chia sẻ,
ông rất mê thơ Huy Cận. Năm 1940, ông từng chọn 2 bài thơ của thi
sĩ Huy Cận là bài Nhớ Hờ và bài Thu Rừng để tập
tành phổ nhạc nhưng không thành công. Thế rồi một cơ duyên khác lại
được mở ra, đó là năm 1960, bạn tình của ông khi đó là nữ thi sĩ Lệ
Lan, người rất yêu thơ tiền chiến đã bày tỏ mong muốn ông phổ nhạc
những bài thơ mà nàng thích trong đó có bài “Ngậm Ngùi” của Huy
Cận. Chiều lòng người đẹp, nhạc sĩ đồng ý “hát lên những bài thơ mà
nàng thích”, nhưng thực lòng ông trong vòng để tâm và kỳ vọng về
tác phẩm này. Sau thất bại ở lần thử đầu tiên với thơ Huy Cận, nhạc
sĩ có lẽ cũng mất đi ít nhiều khoái cảm dù lúc đó ông đã rất thành
công trong nhiều bài nhạc phổ thơ khác
mặc khác, điều bất ngờ ngoài sức tưởng tượng của
nhạc sĩ là ca khúc “Ngậm Ngùi” từ khi ra đời được yêu thích và đón
nhận nồng nhiệt cho đến tận ngày nay. Vô số ca sĩ đã chọn trình
diễn ca khúc này, trong đó có những giọng ca đã trở thành huyền
thoại trong thường xuyên thế hệ yêu nhạc như Thái Thanh, Lệ Thu,
Khánh Ly, Anh Ngọc, Tuấn Ngọc, Khánh Hà, Duy Quang, Thái Hiền, Ý
Lan,…
Mặc dù ca khúc rất được yêu mến và phổ biến rộng
rãi, có một điều mà nhiều người bị lầm tưởng, đó là bài thơ thực
chất là được thi sĩ Huy Cận viết cho người em gái út đã mất của
mình, chứ không phải một người tình nào đó. Điều này đã được gia
đình thi sĩ và cả chính Huy Cận xác nhận sau này. Một người em của
Cù Huy Cận là Cù Huy Chử đã kể lại khá chi tiết trong một bài phỏng
vấn năm 1990:
“Huy Cận rất thương cô em gái út. Vì nhà nghèo
lại đông con nên ông phải vào Huế giúp việc cho một người bà con để
được nuôi ăn học. Ở nhà cô út chỉ quanh quẩn bên mẹ. Ngày xưa liên
hệ đâu phải đơn giản. Cô út khoảng 10 tuổi thì bị đậu mùa rồi qua
đời. Nghỉ hè, Huy Cận về nhà mới biết em út đã mất. Ông ra thăm mộ
em ở cuối vườn, nơi có trồng mấy cây thông reo. Cỏ mắc cỡ lẫn cỏ
dại trùm cả ngôi mộ”.
Lần theo lời kể của người em trai, cùng tìm về
vùng quê nghèo nơi phát sinh người thi sĩ tài hoa Huy Cận, nơi có
nấm mộ nhỏ của cô em gái út nằm cô quạnh cuối vườn, nơi khai sinh
ra một khúc ca chưa bao giờ khiến người nghe thôi “ngậm ngùi”. Nói
về quê hương mình, Huy Cận viết:
“Tôi sinh ra ở một làng sơn cước, dưới chân
núi Mào Gà (núi có hình mào con gà), bên một nhánh của con sông La
là sông Ngàn Sâu (sông La có hai nhánh: Ngàn Sâu chảy qua quê tôi
và Ngàn Phố). Làng tôi hẻo lánh, cảnh hết sức đẹp nhưng nghèo lắm,
đến nay vẫn nghèo. Xã tôi cách Linh Cảm 6 km, cách huyện ly Đức Thọ
8 km, nhưng nó vắng vẻ vô cùng. Xuân Diệu có lần về quê tôi và bảo:
“Quê Huy Cận sao mà vắng vẻ, hắt hiu quá, nếu không vì thương bạn
thì cũng chẳng về thăm”. Xã tôi ở sát chân núi nên chiều về sớm,
giữa chiều đã sẫm tối như hoàng hôn. Ngày rút ngắn lại. Ở xã tôi có
nhiều cây cọ, ở Hà Tĩnh gọi là cây Tro, tạo không khí một cái gì
rất hoang sơ, cổ sơ…
Xã tôi ở rất đẹp. Chân núi chạy dọc bờ sông,
có cánh đồng trải dài, trong đó có gieo cả lúa nước, nhưng chủ yếu
là ruộng cạn. Ruộng cạn cấy lúa trỉa (gieo hạt thẳng), trồng khoai,
ngô, đậu đen, đậu xanh, đậu trắng hoặc trồng mía. Mùa xuân, ngô vừa
nhú mầm lên, cả cánh đồng dậy lên mầu xanh ánh tuyết rất đẹp. Tưởng
như có thể cắt xén từng mẩu đất mà nhéi, mà nuốt được!….”
Những ký ức tuổi thơ dù nghèo khó nhưng êm đềm,
ngọt ngào nơi vùng quê sơn thuỷ hữu tình dường như chưa bao giờ
phai nhoà trong tâm hồn thi sĩ Huy Cận. Quê hương với những làn
điệu tình tự ngọt ngào như một chiếc nôi nuôi lớn tâm hồn thi nhân,
để rồi khi viết “Ngậm Ngùi”, cảnh sắc ấy, những làn điệu tình tự ấy
hoà vào trong lời thơ, tự nhiên như hơi thở. Và Phạm Duy với tài
năng âm nhạc của mình, hẳn cũng trong vòng điều kiện, thổi những
nốt nhạc du dương vào những lời thơ ấy, để làm nên một khúc ca bi
mỹ, da diết và trầm buồn.
Sau những ngày tháng xa nhà trong niềm nhớ mong da
diết, từ Huế, Huy Cận trở về thăm nhà. Niềm vui chưa kịp thoả, thì
đã bàng hoàng hay tin người em gái út mà ông thương yêu nhất đã qua
đời từ lâu, chỉ còn lại nấm mồ nhỏ hoang lạnh, cô quạnh cuối vườn.
Đó hẳn là một buổi chiều nặng trĩu lê thê không thể nào quên:
Nắng chia nửa bãi, chiều rồi!Vườn
hoang trinh nữ khép đôi lá rầuSợi buồn con nhện giăng
mauEm ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây
Ấn tượng về những buổi chiều rất ngắn, rất vội,
“giữa chiều đã sẫm tối như hoàng hôn” của làng quê sơn cước đã được
Huy Cận chuyển vào thơ thật ngọt “Nắng chia nửa bãi, chiều rồi!”.
nhiều người hẳn sẽ thấy mông lung khi nghe câu hát này. “Bãi” ở đây
là gì? Dựa theo lời kể của Huy Cận về quê hương ông, thì đây là
những bãi cát sỏi ven dòng Ngàn Sâu:
“Tôi nhớ những đêm mùa hè, trăng thanh gió
mát. Có nhiều đêm, cả xóm tôi (xóm Thượng Đình vì ở đầu xã, sát
sông La) kéo nhau ra bãi cát để hát hò ví dặm. Trai gái đối đáp với
nhéu rất tình tứ. Có thường xuyên cụ ông già, không hát nữa nhưng
đứng sau “gà” các câu đối đáp rất hay. Trên bãi có con sông Ngàn
Sâu chảy qua (đoạn này gọi là sông Thâm). Ngay cả những người đi
thuyền trên sông (đò chuyến, đò dọc) khi ngang qua cũng tham gia
đối đáp. Người trên bãi kẻ dưới sông cùng đối đáp, không khí hết
sức nên thơ. nhiều khi, bãi bên này hát, bãi bên kia sông cũng nghe
và hát đáp lại. Nhờ những cuộc hát đối đáp như vậy mà nên duyên,
người hai bờ nên vợ nên chồng….”
Bãi sông là nơi hò hẹn, sinh hoạt, hát ca, quây
quần của xóm làng. Nơi chất chứa những kỷ niệm ngọt ngào, thân
quen. Nhắc đến bãi sông là nhắc đến những vui vẻ, hạnh phúc, sum
vầy. Nhưng nắng chiều đã đổ bóng xuống, đã “chia nửa bãi”, chia cắt
chẳng còn nguyên vẹn một bãi sông xôn xao, đầy ắp lời ca tiếng hát.
Hai chữ “chiều rồi!” dằn xuống, hụt hẫng như một tiếng thở dài.
Ngay từ câu hát đầu tiên, một nỗi buồn hoang hoải đã ùa vào lòng
người nghe. Bóng chiều đang phủ xuống vạn vật, chia đôi bãi sông,
phải chăng để báo hiệu một sự rạn vỡ, chia ly? Câu trả lời đã nằm
gọn ở câu hát tiếp theo: “Vườn hoa trinh nữ khép đôi lá
rầu”.
Vừa về tới nhà, hay tin dữ, chàng trai vội vã tìm
tới cuối “vườn hoang” xác thực tin thương đau thì bàng hoàng nhận
ra, cô em gái nhỏ mới lên 10 mà anh nhất mực yêu thương như cánh
“trinh nữ” kia thật sự đã không còn nữa, đã “khép đôi lá rầu”. Cô
gái nhỏ chẳng bao giờ còn có thể cùng anh trai tung tăng trên những
cánh đồng, bãi sông để thả diều, hát ca, đuổi hoa, bắt bướm nữa.
Nắng chiều đổ bóng, “chia nửa bãi” sông ngoài kia, đã chia lìa luôn
người em gái với người anh trai. Sự vỡ vụn, tan nát của chia ly
tràn lên mọi không gian, nhuốm sầu lên vạn vật.
Tận mắt nhìn thấy mộ của em cô quạnh ở vườn hoang,
chàng trai lúc này mới ngã quỵ xuống, sụp đổ trong niềm đau thương
tưởng như không thể chống chọi. Nỗi buồn thương, tuyệt vọng lan
nhanh, kèn đặc như thể có muôn vàn con nhện đang vội vã giăng tơ,
phủ kín khắp thể xác và tinh thần chàng trai: “Sợi buồn con
nhện giăng mau”.
Trong cơn đau thắt nghẹt vì mất em, thi sĩ dường
như tê liệt cả lý trí và tinh thần. Vậy nên, thay vì khóc thương,
oán trách, sầu bi, chàng lại rơi vào ảo giác. Mọi ý thức về không
gian và thời gian nhoè đi, không thể phân định. Chàng trai tưởng
như đang trở về những ngày tháng cũ, trước khi lên Huế học. Những
ngày tháng êm đềm bên cô em gái nhỏ. Những ngày hè oi bức không có
mẹ, anh thay mẹ quạt cho em, vỗ về em vào giấc ngủ: “Em ơi hãy
ngủ.. anh hầu quạt đây”.
Trong những gia đình nghèo, đông con, cha mẹ phải
bươm chải lo cho đàn con dại thì việc anh em lớn bé phải tự chăm
sóc nhéu, nuôi nấng, dạy dỗ nhéu là chuyện bình thường, tất yếu. Kể
về gia cảnh nhà khi đó, Huy Cận tâm sự:
“Nhà tôi nghèo kinh khủng. Quanh năm ăn cơm
độn (sắn, khoai, đậu đen) rất khó ăn. Quần áo không đủ mặc, anh em
tôi luôn phải mặc chung quần áo. Năm 1927 tôi đang học lớp 4, cậu
mợ tôi nhắn mẹ tôi đem tôi xuống bà ngoại để theo cậu mợ vào Huế
học. Tôi ra đi gấp gáp lại đúng ngày mưa buồn, nước lụt. Mẹ tôi dắt
díu tôi bì bõm lội từ xóm Thượng Đình của tôi xuống đến xóm dưới
(trên 2km) còn tôi cởi quần áo, sách vở, lội ngập trên đầu gối theo
mẹ. Mẹ tôi luôn mồm an ủi: “Cắn răng mà đi con ạ!”. Cuối cùng mẹ
con tôi cũng về được tới Linh Cảm (quê ngoại). Khi về tới quê gặp
bà ngoại, mẹ tôi tủi thân khóc (bởi lấy chồng nghèo, lại bất đắc
chí hay đi lang thang). Bà tôi an ủi mẹ: “Thôi đừng khóc nữa, cho
cháu đi với cậu mợ nuôi nó học”. Thế là tôi theo cậu mợ vào Huế. Dù
có nghĩ đến một lối thoát khi ra đi, nhưng cái lần đầu xa nhà ấy,
tôi cứ mãi da diết buồn…”
Hẳn là phải yêu em, thương em nhiều lắm, thi sĩ
mới có khả năng viết những câu thơ tràn ngập yêu thương và nâng niu
dành cho em:
Lòng anh mở với quạt nàyTrăm con chim
mộng về bay đầu giườngNgủ đi em, mộng bình
thường!Ru em sẵn tiếng thuỳ dương mấy bờ
Người anh trai trong những tháng ngày chăm sóc em
gái nhỏ, đã thương yêu em bằng trái tim không mỏi mệt của một người
mẹ thực sự: “Lòng anh mở với quạt này”. Đó là những trưa
hè nóng nực, anh kê tay để em làm gối, ôm em vào lòng, kiên nhẫn
quạt ru cho em ngủ. Đó là những đêm em giật mình khóc thét với
những giấc mơ không đón đợi, anh nhẹ nhàng vỗ về để em ngủ lại.
Câu hát: “Trăm con chim mộng về bay đầu
giường”, hẳn là lời hứa của người anh sẽ bảo vệ cho em mỗi khi
em gặp ác mộng. Anh hứa dù có “trăm con chim mộng” tìm đến thì em
cũng không cần phải sợ hãi vì đã có anh kề bên lo lắng và bảo vệ
cho em. Những lời hát vỗ về em vào giấc ngủ lặp đi lặp lại đầy dịu
dàng, che chở. Nhưng anh vẫn chỉ là một người anh chưa kịp lớn,
không thể hát ru em bằng những khúc ru ngọt ngào như mẹ, vậy nên
anh chỉ có thể: “Ru em sẵn tiếng, thuỳ dương đôi bờ”.
Thuỳ dương ở đây chính là cây dương liễu hay còn
gọi là phi lao, là một loài cây lá kim rậm rịt, thường được trồng
thường xuyên ở các vùng nông thôn biển để làm bóng mát, chắn cát và
chắn gió. Mỗi lần gió thổi qua rừng dương, những âm thành phát ra
vừa véo von, du dương, vừa phảng phất buồn, nghe như tiếng ru hờ da
diết của những bà mẹ. “Tiếng thuỳ dương” thường được các nhà nghệ
sĩ đưa vào thơ nhạc bởi những thanh âm đầy bí ẩn và lôi cuốn. Nhưng
nhà Huy Cận ở vùng sơn cước núi non, nào đâu có biển, có bờ, có
rừng thuỳ dương vi vút gió, chỉ có những bãi cát sỏi ven sông và
mấy “cây thông reo” trồng trong vườn nhà ngay gần mộ của cô em gái
út. Hẳn là chàng thi sĩ nghe tiếng thông reo trong gió ngàn mà thi
vị hoá thành “tiếng thuỳ dương”.
Không rõ khi phổ nhạc, nhạc sĩ Phạm Duy có biết rõ
hoàn cảnh ra đời đầy bi thương của bài thơ hay không. Nhưng ông đã
rất tinh tế khi “diễn giải” 4 câu thơ trên của Huy Cận thành một
khúc hát dài tới 8 câu, trong đó 6 câu phía trên được đặt làm đoạn
điệp khúc, lặp lại 2 lần:
“Lòng anh mở với quạt này,Trăm con
chim mộng về bay đầu giườngNgủ đi em mộng bình
thườngNgủ đi em mộng bình thườngRu em sẵn tiếng,
thùy dương đôi bờ
Ngủ đi em, ngủ đi emNgủ đi mộng vẫn
bình thườngÀ ơi có tiếng thùy dương mấy bờ”
Bởi lời hát càng dài, càng da diết, ngọt ngào, yêu
thương thì hình ảnh người anh trai chìm trong ảo mộng của những
tháng ngày hạnh phúc, sum vầy xưa kia lại càng hiện lên sắc nét.
Nỗi đau thương theo đó cũng được nhân lên, khứa vào tim của người
thưởng nhạc, truyền đi một mỗi buồn sầu, xót xa vô tận.
Hãy nghe những câu hát tiếp theo để thấy sự chuyển
đổi của những xúc cảm phức tạp diễn ra trong tâm trí người anh sầu
não:
Cây dài bóng xế ngẩn ngơHồn em đã
chín mấy mùa buồn đau
Mê rồi lại tỉnh, chàng trai ngỡ ngàng nhìn quanh
thấy “cây dài bóng xế” đổ xuống. Nhưng tỉnh rồi lại đau, chẳng có
trưa hè hay đêm muộn êm đềm, sum vầy nào đang đón đợi chàng trai
cả. Chàng bàng hoàng nhận ra hiện thực tàn khốc của buổi chiều đau
thương vừa hay tin dữ. Chàng lẩm bẩm đầy nghi hoặc: “Hồn em đã
chín mấy mùa buồn đau?”. Chàng trai vẫn không thể tin, không
tin ngay cả khi lý trí của chàng đã lên tiếng xác nhận. Chàng vật
vã bàng hoàng cố tìm một lý lẽ nào đó để phủ nhận thực tại phũ
phàng nhưng không thể. Trong nỗi đau thương tuyệt vọng, chàng gắng
gượng van xin phép một phép màu:
Tay anh em hãy tựa đầuCho anh nghe
nặng trái sầu rụng rơi
Em hãy tựa đầu vào tay anh đi.. tựa đi.. để anh
được nghe lại cảm giác của những ngày xưa, để anh được nghe đầu em
nặng trên cánh tay anh, để anh biết rằng em vẫn còn đây, vẫn ở bên
anh, để “trái sầu” đang đè nặng, bóp nghẹt trái tim anh “rụng rơi”
đi… Nhưng chẳng có phép màu nào xuất hiện, ngôi mộ lạnh lẽo của cô
em gái nhỏ vẫn ở đó, chìm trong cỏ dại. Một cảnh tượng thê thiết và
u sầu.
Ca khúc kết lại, nhưng “trái sầu” thì vẫn ở đó,
nghàn năm lơ lửng, chưa từng “rụng rơi”…
Gần 20 năm sau khi bài thơ Ngậm Ngùi ra mắt trong
tập thơ Lửa Thiêng, nhạc sĩ Phạm Duy mới phổ thành nhạc. tuy nhiên
trong vài năm đầu, bài hát này không gây ra được thường xuyên chú ý
như những tác phẩm khác của ông. Đến đầu thập niên 1960, sự xuất
hiện của Lệ Thu trong làng nhạc Sài Gòn đã làm sống dậy Ngậm
Ngùi, khi cô đưa nhạc khúc này trở thành một trong những
bài nhạc phổ thơ thành công nhất của nhạc sĩ Phạm Duy, và sau đó
chính nhà thơ Huy Cận đã gửi lời cảm ơn Phạm Duy về việc giúp bài
thơ này thêm nổi tiếng.
Thập niên 1960. Lệ Thu là ca sĩ ăn khách tại phòng
trà Queen Bee hàng đêm, và ca khúc Ngậm
Ngùi luôn được khán giả yêu cầu nhiều nhất. Trong số
những khán giả đó có nhà văn Duyên Anh, sau khi nghe Lệ Thu
hát Ngậm Ngùi, ông đã viết một bài báo gọi giọng ca
trẻ Lệ Thu là Tiếng Hát Vàng Mười, nghĩa là giọng hát quý như vàng
không có pha trộn.
Bài: Niệm QuânBản quyền bài viết của
nhécxua.vn
Tags: ngậm ngùi
Xem bài khác
No Content Available
Các câu hỏi về ý nghĩa bài hát ngậm ngùi
Nếu có bắt kỳ câu hỏi thắc mắt nào vê ý nghĩa bài hát ngậm ngùi hãy
cho chúng mình biết nhé, mõi thắt mắt hay góp ý của các bạn sẽ giúp
mình cải thiện hơn trong các bài sau nhé <3 Bài viết ý nghĩa bài
hát ngậm ngùi ! được mình và team xem xét cũng như tổng hợp từ
nhiều nguồn. Nếu thấy bài viết ý nghĩa bài hát ngậm ngùi Cực hay !
Hay thì hãy ủng hộ team Like hoặc share. Nếu thấy bài viết ý nghĩa
bài hát ngậm ngùi rât hay ! chưa hay, hoặc cần bổ sung. Bạn góp ý
giúp mình nhé!!
Các Hình Ảnh Về ý nghĩa bài hát ngậm ngùi
Các hình ảnh về ý nghĩa bài hát ngậm ngùi đang được chúng mình Cập
nhập. Nếu các bạn mong muốn đóng góp, Hãy gửi mail về hộp thư
[email protected]. Nếu có bất kỳ đóng góp hay liên hệ. Hãy Mail
ngay cho tụi mình nhé
Tham khảo thêm thông tin về ý nghĩa bài hát ngậm ngùi tại
WikiPedia