Bài viết c) Trừu tượng hóa và khái quát hóa – Tài
liệu text thuộc chủ đề về Thắc Mắt thời gian này
đang được rất nhiều bạn quan tâm đúng không nào !! Hôm nay, Hãy
cùng Khoa Lịch Sử tìm hiểu
c) Trừu tượng hóa và khái quát hóa – Tài liệu text trong bài viết
hôm nay nhé ! Các bạn đang xem bài viết : “c) Trừu
tượng hóa và khái quát hóa – Tài liệu text”
Đánh giá về c) Trừu tượng hóa và khái quát hóa – Tài liệu text
Trừu tượng hóa là dùng trí óc gạt khỏi đối tượng những bộ phận, thuộc
tính, quan hệ… không rất cần thiết và chỉ giữ lại những yếu tố nào rất cần thiết để
tư duy.
Khái quát hóa là dùng trí óc để hợp nhất nhiều sự vật, hiện tượng khác
nhau nhưng có cùng những thuộc tính bản chất thành một nhóm mà nhóm này
tạo nên một khái niệm nào đó.
Trừu tượng hóa và khái quát hóa là hai thao tác cơ bản, đặc trưng của tư
duy, chúng có quan hệ mật thiết, bổ sung cho nhau tương tự như thao tác phân
tích, tổng hợp.
d) Cụ thể hóa
Là sự vận dụng những khái niệm, định luật hoặc quy tắc khái quát, trừu
tượng đã lĩnh hội được vào vận hành thực tiễn nhằm giải quyết những nhiệm
vụ nào đó.
Vậy, quy trình tư duy thực chất là một quy trình tiến hành các thao tác tư
duy để giải quyết một vấn đề nào đó nhưng không phải bất cứ quá tình tư duy
nào cũng diễn ra tất cả các thao tác tư duy mà tùy thuộc vào từng nhiệm vụ cụ
thể. Nhờ có đặc điểm này của tư duy mà con người có thể nhìn xa vào tương
lai, không chỉ giải quyết được những nhiệm vụ Hiện tại mà cả những
nhiệm vụ mai sau của con người.
1.1.2. Tư duy sáng tạo
1.1.2.1. Khái niệm sáng tạo
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Sáng tạo là tìm ra cái mới, cách giải quyết
mới không bị gò bó, phụ thuộc vào cái đã có” [23, tr 1130].
Theo Bách khoa toàn thư Xô-Viết: “Sáng tạo là vận hành của con người
trên cơ sở các quy luật khách quan của thực tiễn, nhằm biến đổi thế giới tự
nhiên, xã hội phù hợp với mục đích và mong muốn của con người. Sáng tạo là
vận hành có tính đặc trưng không lặp lại, tính độc đáo và duy nhất”.
16
Tác giả Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng: “Sáng tạo là sự vận động của tư
duy từ những hiểu biết đã có đến những hiểu biết mới” [28, tr 17].
Như vậy sáng tạo được xem là vận hành tạo ra sự thay đổi ngay, sự thay
đổi này không hẳn là đột phá mà đơn thuần là sự thay đổi ngay, thêm giảm đi trên
nền tảng cái cũ.
Trong Toán học, PGS.TS Trần Thúc Trình cho rằng: “Đối với người học
Toán, có khả năng quan niệm sự sáng tạo đối với họ, nếu họ đương đầu với những vấn
đề đó để tự mình thu nhận được cái mới mà họ chưa từng biết”[30]. Như vậy,
một bài tập cũng có khả năng xem như một yếu tố sáng tạo nếu người học tìm ra cách
giải quyết mới dựa trên nền tảng những hiểu biết và cách giải quyết cũ trước đó.
1.1.2.2. Khái niệm tư duy sáng tạo
Theo quan niệm của Tâm lý học: “Tư duy sáng tạo là tư duy vượt ra
ngoài phạm vi giới hạn của hiện thực, của vốn kinh nghiệm và tri thức đã có,
giúp quá trình giải quyết nhiệm vụ của tư duy được linh hoạt và hiệu quả”
[10].
Theo tác giả Tôn Thân: “Tư duy sáng tạo là một dạng tư duy độc lập tạo
ra ý tưởng mới, độc đáo và có hiệu quả giải quyết vấn đề cao”. Cũng theo tác
giả: “Tư duy sáng tạo là tư duy độc lập và nó không bị gò bó phụ thuộc vào
cái đã có. Tính độc lập của nó bộc lộ vừa trong việc đặt mục đích, vừa trong
việc tìm giải pháp. Mỗi sản phẩm của tư duy sáng tạo đều đặn mang rất đậm các
dấu ấn của mỗi cá nhân đã tạo ra nó” [27].
Theo tác giả Vũ Dũng: “Tư duy sáng tạo là một kiểu tư duy, đặc trưng
bởi sự sản sinh ra danh mục mới và xác lập các thành phần mới của vận hành
nhận thức nhằm tạo ra nó. Các thành phần mới này có liên quan đến động cơ,
mục đích, đánh giá, các ý tưởng của chủ thể sáng tạo. Tư duy sáng tạo được
phân biệt với áp dụng các tri thức và kĩ năng sẵn có” [2].
17
Như vậy có thể hiểu tư duy sáng tạo là cách thức tư duy của cá nhân
nhằm tạo ra cái mới, độc đáo mà trước đó chưa có.
Trong bộ môn Toán, theo tác giả G.Polya: “Một tư duy gọi là có hiệu quả
nếu tư duy đó dẫn đến lời giải một bài toán chi tiết nào đó. có khả năng coi là sáng
tạo nếu tư duy đó tạo ra những tư liệu, phương thuận tiện giải các bài toán khác.
Các bài toán vận dụng những tư liệu, phương tiện này có số lượng càng lớn,
có dạng muôn màu, muôn vẻ thì mức độ sáng tạo của tư duy càng cao” [6].
Vì vậy, trong quy trình giải toán, tư duy sáng tạo của học sinh được biểu
hiện ở chỗ học sinh tự khám phá, tự tìm tòi cách giải quyết để đưa ra những
phương án mới lạ, độc đáo, khả thi mặc dù trước đó học sinh chưa biết đến
bài toán hoặc đã biết nhưng làm theo phương thức khác.
1.1.2.3. Đặc trưng cơ bản của tư duy sáng tạo
Theo nghiên cứu của các nhà tâm lý học, giáo dục học và các nhà khoa
học giáo dục từ trước tới nay, nói tới cấu trúc của tư duy sáng tạo thì có năm
đặc trưng cơ bản sau đây: Tính mềm dẻo, tính nhuần nhuyễn, tính độc đáo,
tính hoàn thiện và tính nhạy cảm vấn đề. Trong các yếu tố trên, ba yếu tố đầu
tiên (tính mềm dẻo, tính nhuần nhuyễn, tính độc đáo) là ba yếu tố quan trọng
và được sự nhất trí cao trong các công trình nghiên cứu về cấu trúc của tư duy
sáng tạo.
a) Tính mềm dẻo
Tính mềm dẻo của tư duy sáng tạo là tiềm lực thay đổi ngay đơn giản, nhénh
chóng các trật tự của hệ thống tri thức, chuyển từ góc độ quan hệ này sang
góc độ quan hệ khác, có khả năng định nghĩa lại sự vật, hiện tượng, xây dựng
phương pháp tư duy mới, tạo ra những đối tượng mới trong những mối liên lạc
mới hoặc chuyển đổi quan hệ và nhận ra bản chất của đối tượng và điều phán
đoán. Tính mềm dẻo của tư duy còn làm thay đổi một cách đơn giản các thái
độ đã cố hữu trong vận hành trí tuệ của con người.
18
Tính mềm dẻo của tư duy sáng tạo có các đặc trưng sau:
– đơn giản chuyển từ hoạt động trí tuệ này sang hoạt động trí tuệ khác;
vận dụng linh động các thao tác: Phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa,
khái quát hóa, cụ thể hóa và các phương pháp suy luận như: Quy nạp, suy
diễn, tương tự; đơn giản chuyển từ giải pháp này sang giải pháp khác, điều
chỉnh đơn giản suy nghĩ nếu gặp trở ngại.
– Suy nghĩ không rập khuôn, không áp dụng một cách máy móc những
kinh nghiệm, những kiến thức, kỹ năng đã có vào hoàn cảnh mới trong đó có
thường xuyên yếu tố đã thay đổi ngay; có khả năng thoát khỏi ảnh hưởng kìm hãm của
những kinh nghiệm, những cách suy nghĩ, những phương pháp đã có từ trước.
– Nhận ra những vấn đề mới trong điều kiện quen thuộc, nhìn thấy chức
năng mới của đối tượng quen biết.
Như vậy tính mềm dẻo là một trong những đặc trưng cơ bản của tư duy
sáng tạo. Trong quá trình giảng dạy bộ môn Toán, việc đưa ra hệ thống các
bài tập cho học sinh cũng giúp các em có thể rèn luyện được tính mềm
dẻo thông qua các thao tác tư duy của bản thân.
b) Tính nhuần nhuyễn
Tính nhuần nhuyễn của tư duy sáng tạo là năng lực tạo ra một cách
nhénh chóng sự tổ hợp giữa các yếu tốriêng lẻ của tình huống, hoàn cảnh, đưa
ra giả thuyết mới và ý tưởng mới. Tính nhuần nhuyễn được đặc trưng bởi khả
năng tạo ra một vài lượng nhất định các ý tưởng trong một đơn vị thời gian. Số
ý tưởng nghĩ ra càng nhiều thì có thường xuyên khả năng xuất hiện ý tưởng độc đáo.
Trong trường hợp này có khả năng nói số lượng làm nảy sinh chất lượng – một quy
luật của duy vật biện chứng.
Tính nhuần nhuyễn của tư duy sáng tạo có các đặc trưng sau:
– Có tính phong phú của cách xử lý khi giải toán, có khả năng tìm được nhiều
giải pháp trên nhiều góc độ và tình huống khác nhau. Đứng trước một vấn đề
19
cần giải quyết, người có tư duy nhuần nhuyễn nhanh chóng tìm ra và đề xuất
được thường xuyên phương án khác nhéu, từ đó tìm ra được phương án tối ưu.
– có khả năng xem xét đối tượng dưới thường xuyên khía cạnh khác nhéu, có cái
nhìn sinh động từ thường xuyên phía đối với sự vật, hiện tượng chứ không phải cái
nhìn bất biến, phiến diện, cứng nhắc.
c) Tính độc đáo
Tính độc đáo của tư duy sáng tạo là có khả năngtự mình phát hiện vấn đề, tự
phát hiện phương hướng và tìm ra cách giải quyết vấn đề bằng phương pháp
lạ hoặc duy nhất.
Những đặc trưng của tính độc đáo là:
– khả năng tìm ra những liên tưởng và những kết hợp mới.
– khả năng tìm ra những mối LH trong những sự kiện mà bên ngoài
tưởng như không có liên lạc với nhau.
– có khả năng tìm ra những giải pháp lạ mặc dù đã biết những giải pháp khác.
Tính độc đáo trong tư duy sáng tạo của học sinh có khả năng được phát hiện ở lời
giải của các em trong quá trình các em giải bài tập; trên cơ sở tập hợp nhiều
lời giải của bài toán, học sinh tìm ra lời giải mới hay nhất, ngắn gọn và dễ
hiểu nhất.
d) Tính hoàn thiện
Tính hoàn thiện của tư duy sáng tạo là khả năng lập kế hoạch, phối hợp
các ý nghĩ và hành động, phát triển ý tưởng, kiểm tra và chứng minh ý tưởng.
e) Tính nhẹ́y cảm vấn đề
Tính nhạy cảm vấn đề trong tư duy sáng tạo là năng lực phát hiện ravấn
đề, sự mâu thuẫn, sai lầm, thiếu logic, chưa tối ưu…từ đó đưa ra hướng giải
quyết, tạo ra cái mới.
Tính nhạy cảm vấn đề có những đặc trưng sau:
– có khả năng nhénh chóng phát hiện vấn đề.
20
– khả năng phát hiện ra sự mâu thuẫn, sai lầm, thiếu logic… từ đócó nhu
cầu đề xuất hướng giải quyết, đưa ra cái mới.
Các yếu tố cơ bản nói trên của tư duy sáng tạo không tách rời nhéu mà
có quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ và bổ sung cho nhéu. có khả năng đơn giản
chuyển từ vận hành trí tuệ này sang hoạt động trí tuệ khác (tính mềm dẻo)
tạo khó khăn cho việc tìm được nhiều giải pháp trên thường xuyên góc độ và tình
huống khác nhéu (tính nhuần nhuyễn), nhờ đó đề xuất được nhiều phương án
khác nhau để tìm được những phương án tối ưu có giải pháp lạ, đặc sắc (tính
độc đáo). Các yếu tố này có quan hệ chặt chẽ với các yếu tố khác như: Tính
hoàn thiện, tính nhạy cảm vấn đề… Góp phần tạo nên tư duy sáng tạo, một
trong những hoạt động trí tuệ bậc nhất của con người.
Trong quy trình học tập môn Toán ở trường phổ thông, các yếu tố cơ bản
của tư duy sáng tạo thường được biểu hiện rõ rệt ở các em học sinh khá giỏi
qua khả năng di chuyển nhénh chóng các vận hành trí tuệ, dùng linh hoạt các
thao tác tư duy nhất là tư duy thuận nghịch, có hứng thú tìm hiểu thường xuyên cách giải
khác nhau của một bài toán, từ đó rút ra cách giải ngắn nhất, hay nhất.
1.1.2.4. Mối liên hệ giữa tư duy sáng tạo với một số loại hình tư duy
khác
a) Với tư duy biện chứng
Trong tư duy biện chứng, khi xem xét sự vật phải xem xét một cách đầy
đủ với tất cả tính phức tạp của nó, tức là phải xem xét sự vật trong tất cả các
mặt, các mối quan hệ trong tổng thể những mối quan hệ phong phú, phức tạp
và muôn vẻ của nó với sự vật khác. Đây là cơ sở để học sinh học toán một
cách sáng tạo, không gò bó, rập khuôn, đi theo con đường mòn đã có sẵn. Bên
cạnh đó chúng ta còn phải xem xét sự vật trong sự mâu thuẫn và thống nhất,
giúp học sinh học toán một cách chủ động và sáng tạo, thể hiện ở khả năng
phát hiện vấn đề và định hướng cho cách giải quyết vấn đề. Vì vậy, tư duy
21
Các câu hỏi về trừu tượng hóa và khái quát hóa là gì
Nếu có bắt kỳ câu hỏi thắc mắt nào vê trừu tượng hóa và khái quát hóa là gì hãy cho chúng mình biết nhé, mõi thắt mắt hay góp ý của các bạn sẽ giúp mình cải thiện hơn trong các bài sau nhé