Đức Phật khi mới thành đạo, Ngài
liền kêu lên: “Lạ thay, lạ thay! Tất cả chúng sinh đều đặn có đầy
đủ đức tướng trí tuệ của Như Lai, vì các thứ vọng tưởng chấp trước
che mờ, bèn thành lưu chuyển trong sinh tử”. Đây là một chân lý
bình đẳng, là một lẽ thực mọi người đều đặn có đủ, chứ không những
riêng ai.
Ai cũng có
tâm
Chúng ta kiểm lại trên thế gian này xem, ai nảy
sinh đời cũng đều đặn có tâm hết. Nếu không tâm thì thành cây thành
đá vô tri rồi! Mà có tâm tức là có biết. Có biết tức có giác. Có
giác tức là có Phật. Như đức Phật giác ngộ là từ đâu mà giác?
Có thường xuyên vị thống kê lịch sử nghe nói Phật
ngồi thiền định dưới cội Bồ đề 49 ngày đêm. Đến đêm 49 thấy sao Mai
mọc, Ngài liền giác ngộ thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác,
rồi cho rằng Phật giác ngộ từ dưới cội Bồ đề. Nhưng đâu phải vậy,
mà chính từ tâm được giác ngộ.
Thì Phật cũng chính từ tâm chúng sinh giác ngộ mà
thành Phật. Khi giác ngộ rồi thì đổi tên “chúng sinh” thành tên
“Phật”. Cho nên, phẩm Phật đạo trong kinh Duy Ma Cật nói rằng:
“
Tất cả phiền não là hạt giống của Như
Lai”. Nghĩa là hạt giống Như Lai ở ngay trong tất cả phiền
não của chúng sinh.
Quý vị nghe vậy có tin không? Bởi vì có phiền não
cho nên quý vị mới tu, mới giác ngộ mới thành Phật. Nếu không có
phiền não thì đâu có tu. Nên kinh nói tất cả phiền não là hạt giống
của Như Lai.
Vì vậy, có câu: “Từ
bùn lầy sinh hoa sen”. Hoa sen mọc trong bùn lầy mà không
mọc trên khô cạn. Nhân đó, chúng ta thờ Phật ngồi trên đài sen. Có
ai thắc mắc không? Người học Phật cần phải tìm hiểu rõ những ý
nghĩa trên.
Kiểm lại phần lịch sử đức Phật, Ngài sinh ra đời
với thân tướng cao lớn hơn người thường. Như vậy, đâu có hoa sen
nào mà Ngài có thể ngồi trên đó được. Sách ghi Ngài ngồi thiền trên
bó cỏ của người cắt cỏ dâng cúng dưới cội Bồ đề chứ đâu có ngồi
trên hoa sen. Đó là thờ Phật với ý nghĩa Ngài cũng là một chúng
sinh từ bùn lầy của thế gian này rồi vươn lên giác ngộ thành
Phật.
Cũng giống như hoa sen từ trong bùn nhô lên khỏi
mặt nước, rồi nở dần ra và tỏa hương. Vậy thờ Phật ngồi trên hoa
sen là một tượng trưng, để nhắc nhở đánh thức chúng sinh có đầy đủ
niềm tin rằng: Đức Phật cũng từ thế gian này tu hành giác ngộ, nếu
chúng ta khéo tu thì cũng có khả năng giác ngộ. do đó, mọi người có
đủ niềm tin để tiến tu thành Phật.
Nếu Phật từ trên trời xuất hiện xuống nhân gian
rồi thành Phật, thì ngày nay có ai dám phát tâm tu để giác ngộ
thành Phật! Đa số đều sẽ nghĩ Phật là bậc thánh thiện, là bậc phi
phàm, còn mình là chúng sinh mê muội nghiệp nặng, đâu thể tu giác
ngộ được, nên không dám phát tâm tu cầu giác ngộ.
Do vì đức Phật thị hiện xuống thế gian này cũng
giống như mọi người, cũng sinh ra rồi lớn lên, cũng có vợ có con
như bao người bình thường khác. Nhưng Ngài sẵn sàng xả bỏ hết để
tìm đường giác ngộ. Vậy Phật cũng là một con người như chúng ta mà
Ngài tu được, Ngài giác ngộ thì chúng ta cũng có thể tu và giác ngộ
được.
Cho nên, ai có tâm thì đều đặn có thể thành Phật.
Đây là một chân lý hiện thực rất gần gũi với mọi người, không phải
chuyện xa xôi.
Thiền sư Bàn Khuê ở Nhật Bản có lần dạy chúng
rằng: “
Vì tâm Phật chiếu sáng một cách
kỳ diệu, cho nên bạn có thể học hỏi đủ thứ. Nhưng cũng vì nó chiếu
sáng kỳ diệu, mà khi nghe điều này bạn sẽ quyết định không si mê
nữa”.
Tức là tâm Phật nơi mọi người luôn chiếu sáng,
nên bạn có khả năng học hỏi nhiều điều tốt. Nhờ đó, khi quý vị nghe
học Phật pháp mới biết Phật pháp, hiểu Phật pháp và mới phát tâm
tu. Nếu không có hạt giống Phật, hạt giống giác ngộ, thì giờ này
quý vị ngồi ở đâu? Chắc không ngồi đây. Nhưng quý vị lại ngồi đây.
Tức là có hạt giống giác ngộ trong này thôi thúc, nên quý vị mới
vào đây ngồi nghe pháp và quyết định không si mê nữa.
“Cũng hệt như khi
trước bạn siêng năng, tập tành thói si mê, làm cho mình mê muội như
thế nào, thì bây giờ bạn cũng sẽ áp dụng chính có khả năng ấy, để
mà lắng nghe và chấm dứt si mê, đấy là điều kỳ diệu về tâm Phật,
hãy lắng nghe, rồi bạn sẽ thấy sự quý báu của tâm Phật. Mọi người
lắng nghe rồi, thì mình mới thấy sự quý báu của tâm Phật nơi chính
mình, nơi mỗi người. Khi đã thấy không gì bằng tâm Phật quý báu
này, thì dù bạn có muốn si mê trở lại cũng không thể
được”.
Ngài nói trước kia nó si mê như thế nào, thì bây
giờ cũng từ đó chuyển lại để chấm dứt si mê. Khi mình thấy được cái
quý báu, hy hữu và tin chắc là mình có điều đó rồi, thì mới quyết
tâm để tiến tu đến giác ngộ. Và nếu muốn si mê trở lại cũng không
thể được.
Ngài nói ngay hành vi lầm lạc cũng không rời tâm
Phật.
Tức là con người ai cũng có tâm Phật, nhưng bỏ
quên nó nên thành lầm lạc. Đến khi được nhắc, ngay đó liền tỉnh trở
lại, thì rõ ràng nó đâu có rời tâm Phật.
Thời Phật, có câu chuyện về bà Liên Hoa Sắc. Một
hôm, Tôn giả Mục Kiền Liên trên đường đi khất thực trở về, đi ngang
qua một khu vườn, chợt gặp một người phụ nữ trung niên rất xinh
đẹp. Người phụ nữ này đang chờ Ngài đi gần đến rồi dùng những lời
lẽ êm dịu gạ chuyện để mời mọc. Tôn giả có thần thông nhìn qua biết
đây là một kỹ nữ muốn mê hoặc mình và còn thấu rõ những uẩn khúc ẩn
chứa trong lòng của người phụ nữ này.
Ngài chẳng những không lay động, mà còn uy
nghiêm nói: “Thật là đáng thương! Trông hình dáng xin phéph đẹp,
trang sức lộng lẫy của cô, thoáng nhìn tưởng chừng ít ai ở trên đời
này hơn được. Nhưng bên trong lòng cô thì đang chứa đầy ô uế, ngày
đêm tiết rỉ không ngừng. Thân thể và tâm hồn của cô hiện nay cực kỳ
bất tịnh. Cô đang vùng vẫy trong bùn nhơ, như con voi già bị sa
lầy, càng vùng vẫy chừng nào thì càng lún sâu thêm chừng đó”.
Bà Liên Hoa Sắc nghe liền giật mình kinh hãi. Tại
sao ông thầy này thấu rõ tâm mình như vậy? Và ngay đó bà rơi lệ,
thú thật là: “Bạch Tôn giả! Ngài đã biết rõ nên tôi cũng không thể
giấu nữa. Trước tôi đã sớm nghe danh Ngài là vị đệ tử thần thông
bậc nhất của đức Phật, và không tin thần thông có khả năng vượt qua
được sắc đẹp. Tôi biết tôi là một kẻ tội lỗi, nhưng không hề nghĩ
đến việc hướng thiện. Do vì quá tuyệt vọng và nghĩ rằng đối với một
người có quá khứ ghê rợn như tôi, không ai có khả năng cứu vớt,
chắc chắn mai sau sẽ chịu quả báo đáng kinh sợ”.
Tôn giả Mục Kiền Liên an ủi rằng: “
Cô không nên tự làm khổ mình như vậy, cũng đừng thất
vọng. Tội nghiệp dù có nặng đến đâu, nếu thật tâm sám hối thì đều
có thể cứu vãn. tương đương y phục dơ, có khả năng giặt giũ; thân
thể ô uế thì có khả năng dùng nước tẩy trừ; còn tâm không thanh
tịnh thì có thể dùng Phật pháp để rửa sạch. Trăm dòng sông nhơ
nhớp, một phen chảy vào biển cả, thì nước biển lớn thảy đều làm
sạch nước trăm sông. Lời dạy của đức Thế Tôn ta đủ sức để khiến cho
thanh tịnh lòng người ô uế, có khả năng cho sám hối những tội
nghiệp quá khứ”.
Tức là thân nhơ thì Ngài nói dùng nước tắm sạch,
còn tâm nhơ thì sử dụng nước Phật pháp để tẩy rửa. Cũng còn hy
vọng, không thể hoàn toàn thất vọng.
Bà Liên Hoa Sắc nghe rồi liền thưa: “Nhưng tội lỗi
quá khứ của tôi quá khủng khiếp, nếu nói ra e Tôn giả phải bỏ chạy
đi thôi”. Tôn giả Mục Kiền Liên bảo: “Cô cứ nói!” Bà Liên Hoa Sắc
thổ lộ hết những uẩn khúc ở trong lòng: “Tôi tên là Liên Hoa Sắc,
con gái của một vị trưởng giả ở thành Đắc Xoa Thi La. Khi lên 16
tuổi, cha mẹ lập gia thất cho tôi. Nhưng không lâu thì cha tôi qua
đời, bà mẹ góa bụa của tôi bèn tư thông với chồng tôi. Biết được
tin này tôi rất đau lòng bỏ nhà ra đi, bỏ luôn đứa con gái vừa sinh
lại cho chồng.
Sau đó, tôi lại tái giá với một thương gia ở nơi
khác. Nhân chuyến đi buôn xa ngang qua thành Đắc Xoa Thi La này,
anh ấy lại lén mua một nàng thiếp giấu ở một nhà riêng. Tôi biết
được mới nổi máu ghen, quyết tìm nàng thiếp ấy để xử một trận nên
thân. Than ôi! Khi tôi vừa gặp mặt người thiếp, thì liền té xỉu tại
chỗ. Bởi vì cô gái ấy lại chính là con gái đời chồng trước của
tôi”. Kể đến đây, bà khóc không ra tiếng.
Tôn giả Mục Kiền Liên an ủi: “Cô nhớ đừng nên quá
đỗi thương tâm, nếu là người biết rõ quá khứ, vị lai, thì xem đó
chỉ là một sự nhân quả luân hồi thôi! Thật ra, đời người là bể tội
lỗi. Cô hãy nói tiếp đi!”
Bà Liên Hoa Sắc kể tiếp: “Làm sao tôi có thể nhẫn
nhục được đối với những nỗi khổ đau như vậy. Lúc đầu thì chính mẹ
mình đoạt chồng của mình, bây giờ thì con gái lại tranh chung chồng
với mình. Thử hỏi làm sao tôi còn có khả năng sống được. Tôi liền
bỏ nhà ra đi, chán ghét thế gian, chán ghét mọi người, và từ đó tôi
đem thân làm kẻ mua vui cho thiên hạ. Tôi muốn đùa cợt với thế
nhân, dùng những giọng cười, tiếng hát mà nhấn chìm thế gian.
Đối với tôi đời sống đâu còn nghĩa lý, chỉ có
lòng hận đời nên trả đũa cho đời. Người ta mua tiếng cười của tôi,
có khi đến hàng ngàn lượng bạc, tôi đem số tiền ấy vung xài cho
sướng tay, khiến người người thần phục dưới chân tôi. Tội lỗi của
tôi như thế, thì Tôn giả đã biết tại sao tôi đến đây để khiêu khích
Ngài, may Tôn giả là bậc có đại thần lực. Giờ đây, tôi không biết
phải sám hối như thế nào để hết tội?”
Bà kể cuộc đời của bà như vậy, quý vị nghe thấy có
đau thương không?
Tôn giả Mục Kiền Liên biết bà Liên Hoa Sắc thật sự
đau khổ, tuy giọng nói và luận điệu của bà bề ngoài có vẻ là khinh
bạc thế gian, nhưng tâm thiện bên trong vẫn chưa mất. do đó, Tôn
giả đem giáo lý duyên sinh của Phật, giảng giải cho bà nghe. Ngài
khéo léo sử dụng thường xuyên phương thuận tiện để an ủi bà. Cuối
cùng bà tỉnh ngộ, đi theo Tôn giả về gặp Phật, được Phật độ cho
xuất gia, rồi tu hành chứng A La Hán. Khi chứng quả A La Hán, bà
Liên Hoa Sắc là vị thần thông số một ở bên ni.
Đây là một bài học, mà cũng là điểm để đánh thức
chúng ta tiến tu. Quý vị thấy bà Liên Hoa Sắc, nhiều duyên nghiệp
xấu như vậy, nhưng khi được nhắc nhở, được đánh thức, bà cũng tỉnh
ngộ tu hành và bà giác ngộ chứng quả A La Hán. Nghĩ lại tất cả
những người ngồi ở đây có ai có nghiệp xấu như bà không? Nếu có
cũng đâu có đến nỗi như vậy. Như thế, tất cả quý vị không thể mặc
cảm cho là mình không thể tu được.
Để thấy rằng dù người bị tội lỗi nghiệp xấu che
mờ, nhưng hạt giống giác ngộ, tâm Phật ở trong không có mất. Nếu
khéo biết sám hối rồi chuyển tâm xấu thành tốt, thì đều có khả năng
tiến lên được, đừng mặc cảm tội lỗi rồi chôn vùi cuộc đời
mình.
Trường hợp bà Liên Hoa Sắc là một vị thường xuyên
nghiệp xấu, nhưng được ngài Mục Kiền Liên khéo léo nhắc nhở, rồi bà
tỉnh ngộ, tiến tu và giác ngộ. Đó là một lẽ thật, không phải là lý
thuyết thôi.
Tiếp câu chuyện thứ hai. Vào thời đức Phật có một
nhóm ngoại đạo rất buồn phiền, vì thấy nhiều đệ tử của mình được
đức Phật giáo hóa quy y về với Phật. Một hôm, vị tu sĩ ngoại đạo
này nghe một đệ tử của mình có người vợ muốn học pháp của Phật.
Ngoại đạo mới gọi người này đến quở trách và ngăn cản không
cho.
Anh này mới về bảo với bà vợ là không được theo
Phật học giáo pháp. Nhưng bà vợ này lại nhất quyết không thay đổi.
Bà nói: “Em sẽ mời đức Phật và chư Tăng đến nhà sử dụng buổi cơm
trưa, lúc đó anh sẽ có dịp chứng kiến, sự thành tâm và trí tuệ vĩ
đại của Ngài”.
Anh chồng này bất đắc dĩ mới đến kể lại cho ông
thầy của mình nghe, thầy ông mới bày cho một cách: “Thôi thì cho
đào một cái hố ở trước cửa nhà, bên trên thì lót thảm, còn thức ăn
thì tẩm thuốc độc, rồi nhốt bà vợ ở trong nhà kho phía sau đừng cho
bà ra, để bà không thể đi báo tin cho Phật được”. Anh này làm theo.
Khi đức Phật được mời, Ngài vẫn nhận lời thỉnh.
Đúng giờ, đức Phật đến và đi qua tấm thảm bình
thường. Anh ta sửng sốt, vì thấy tấm thảm không hề lún xuống. Đúng
ra, khi Phật bước lên thì anh đã cho người giật dây để Phật cùng
với Tăng đoàn lọt xuống hố, nhưng hố ấy lại biến thành hồ sen có
hoa sen đỡ chân Phật và chư Tăng.
Anh thấy vậy liền cảm động, quỳ xuống nói lớn:
“xin phép hãy tha thứ cho con bạch Thế Tôn. Con đã gây thường xuyên
tội lỗi, cho con xin phép sám hối”.
Nghe anh sám hối xong, Phật mới nói bài
kệ:
“Tâm giác ngộ đã vượt lên mọi nhị
nguyên
Làm sao mà thiện hay ác còn đụng đến nó được
nữa
Tâm tỉnh giác xa lìa mọi dục ái của ba
độc
Làm sao cái khổ còn đụng đến nó được
nữa”.
Tức là tâm giác ngộ này vượt lên cả hai bên đối
đãi, xa lìa cả ba độc tham, sân, si, thì độc ở thế gian đâu có đụng
đến nó được. Sau đó anh được Phật cảm hóa.
Quý vị thấy người này ban đầu cũng là từ tâm lầm
lạc, sau nghe Phật pháp cũng được chuyển hóa. Cho nên, ngài Bàn
Khuê mới nói tâm Phật chiếu sáng một cách kỳ diệu, ngay cả những
hành vi lầm lạc cũng không rời ngoài. Qua đó, chúng ta có đủ niềm
tin để tiến lên, khai thác tâm Phật nơi chính mình.
Tinh thần phản
quan
Ở Việt Nam, Thượng sĩ Tuệ Trung là một vị cư sĩ
giác ngộ đạo lý cao siêu, sống tự tại trong sinh tử. Khi còn học
đạo với Ngài, vua Trần Nhân Tông có hỏi: “Tông chỉ của việc bổn
phận là thế nào?” Ngài dạy: “
Phản quan
tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc”. Tức là
soi sáng lại chính mình là việc bổn
phận, đó là việc chính của mình, không từ nơi khác mà
được.
|
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet) |
Ý muốn nhắc, người học đạo nhớ việc bổn phận là
phải soi sáng lại chính mình. Cũng là để cho mỗi người chuyển những
lời kinh, những điều học hỏi từ nơi đức Phật, từ chư Tổ hoặc từ
thầy trở thành hiện thực nơi chính mình. Phải biến những lời kinh
trong văn tự chuyển thành những lời kinh sống ngay trong cuộc sống
của mình. Đó là chúng ta khai thác được tâm Phật, chính đó là bản ý
của Phật ra đời.
Khi hiểu đúng thì mình tu đúng. hàng ngày càng tu
càng an vui, giảm đi phiền não và đến gần với đạo. Nếu không như
vậy thì bỏ mất thời gian qua suông rất uổng phí.
Mã Tổ – Đạo Nhất ban đầu thường ngồi thiền mà chưa
tỏ ngộ. Lúc đó, Thiền sư Nam Nhạc – Hoài Nhượng thấy, muốn cảnh
tỉnh nên đến phía trước ngài Đạo Nhất mài gạch tới lui hoài. Ngài
Đạo Nhất đang ngồi thiền thấy thiền sư sao cứ ngồi mài gạch, liền
xả thiền ra hỏi: “Thầy mài gạch để làm gì vậy?” Thiền sư đáp: “Mài
gạch để làm gương”.
Quý vị nghĩ làm sao mài gạch thành gương được?
Ngài liền hỏi ngược lại: “Mài gạch làm sao có thể thành gương
được?” Ngài Nam Nhạc bảo: “Như vậy, ngồi thiền cũng đâu có khả năng
thành Phật được?” Đạo Nhất mới hỏi: “Vậy thì làm thế nào mới phải?”
Ngài Nam Nhạc nói: “cũng như con trâu kéo chiếc xe, nếu xe không đi
thì đánh chiếc xe là phải hay đánh con trâu là phải?” Ngay đó, ngài
Đạo Nhất tỉnh ngộ.
Chúng ta tu hành cũng vậy. Khi con trâu kéo xe, xe
không đi thì đánh chiếc xe hay là đánh con trâu? Đôi khi chúng ta
tu có bị lộn ngược hay không? Có lo đánh chiếc xe mà không đánh con
trâu chăng? Câu chuyện trên muốn cảnh tỉnh mỗi người là con trâu
tức là tâm mới biết giác ngộ, còn xe tức là thân tứ đại là vật vô
tri đâu có biết giác. thường xuyên khi chúng ta tu cứ ép xác nhưng
không lo chuyển tâm. Chính tâm là căn bản. Phiền não cũng từ nơi
tâm mà phiền não, giác cũng từ tâm mà giác ngộ. Chúng ta phải soi
sáng lại tâm mình, để thấy rõ tâm có phiền não, mê lầm nhiều ít, từ
đó chúng ta mới chuyển tâm, đó mới là yếu chỉ để tu hành.
Có lần, Thiền sư Lâm Tế dạy: “Sắc thân bốn đại của các ông, nó không biết nói
pháp, không biết nghe pháp. Tỳ, vị, gan, mật cũng chẳng biết nói
pháp, nghe pháp. Nhưng chính cái gì biết nói pháp nghe pháp? Là một
cái đang sáng tỏ hiện bày rành rõ trước mắt ông đây, cái đó mới
biết nói pháp, nghe pháp. Nếu mà thấy được như vậy thì liền cùng
Phật Tổ không khác”.
Đây, Ngài Lâm Tế cũng dạy chúng ta soi lại. Hiện
giờ quý vị đang ngồi đây nghe pháp, thì cái gì nghe? Tim, gan, tỳ,
phổi v.v… mấy thứ đó đâu có biết nghe pháp. Cái biết nghe pháp rõ
ràng đang hiện tiền đây, cái đó là chân lý sống, là cái hiện thực.
Mỗi vị ngồi đây có ai thiếu việc này không? Đã có đủ hết mà không
chịu giác là sao? Đây là điều đáng buồn, đáng tiếc!
Thế nên, chư Phật, chư Tổ ra đời để nhắc nhở đánh
thức chúng ta thấu hiểu rồi tỉnh trở lại rằng lẽ thực sẵn đủ nơi
mọi người, tin chắc mọi người đều đặn có khả năng giác ngộ.
Chân lý bình
đẳng
Đức Phật khi mới thành đạo, Ngài liền kêu lên:
“Lạ thay, lạ thay! Tất cả chúng sinh
đều đặn có đầy đủ đức tướng trí tuệ của Như Lai, vì các thứ vọng
tưởng chấp trước che mờ, bèn thành lưu chuyển trong sinh
tử”. Đây là một chân lý bình đẳng, là một lẽ thực mọi
người đều có đủ, chứ không chỉ riêng ai.
Tức là khi Phật giác ngộ, Phật thấy tất cả chúng
sinh đều đặn có trí tuệ Như Lai, đều có tâm Phật hết. Nhưng vì
những thứ vọng tưởng, chấp trước che mờ, thành ra bị lưu chuyển
trong luân hồi sinh tử. Như vậy, mọi chúng sinh đều đặn có đủ tâm
Phật mà không tự ngộ. Quý vị nào có tụng kinh Pháp Hoa, thì trong
kinh nói rõ bản hoài của chư Phật ra đời cốt là khai thị cho chúng
sinh ngộ nhập tri kiến Phật. Đức Phật dùng bao nhiêu phương thuận
tiện sai khác, đều đặn vì một việc này thôi chứ không gì khác. Đức
Phật không phủ nhận ai hết. Chỉ vì mọi người có tri kiến Phật nhưng
không biết, nên chư Phật ra đời để khai thị cho mọi người tỉnh trở
lại, sáng tỏ trở lại tri kiến Phật đó thôi!
Hoặc Ngài sử dụng thường xuyên phương thuận tiện
là để dẫn dắt chúng ta từ từ trở về chỗ này. Trong kinh nói chỉ có
nhất thừa là Phật thừa. Như vậy, đức Phật rất tôn trọng con người,
nâng cao giá trị của con người, chỉ rõ cho mọi người thấy là ai
cũng đều đặn có thể để vượt lên khỏi cái chúng sinh này.
Khi học đến phẩm Bồ tát Thường Bất Khinh, quý vị
thấy Bồ tát tu hạnh gì? Ngài tu hạnh là khi gặp bất cứ ai thì Ngài
cũng chắp tay xá nói: “Tôi không dám
khinh các Ngài, các Ngài đều đặn sẽ thành Phật”. Có những
người đã không tin còn chửi mắng, hoặc lấy đá ngói ném liệng, thì
Ngài chạy xa xa chắp tay cũng nói câu trên.
Sau đó đức Phật nói, Bồ tát Thường Bất Khinh đó là
tiền thân của Ngài, còn những người đã chửi mắng, ném đá vào Bồ tát
Thường Bất Khinh thì Hiện tại đang ngồi trong hội đó. Như vậy, Phật
nói Bồ tát do tu hạnh đó mà sớm thành Phật.
Bởi vì, thấy rõ mọi người đều đặn có tâm Phật, đều
đặn có hạt giống giác ngộ nên không dám khinh ai hết. Trên hình
tướng bên ngoài, thì có nghiệp riêng có huân tập sai biệt. Còn tánh
giác hay tâm Phật này thì ai cũng như ai đâu có thiếu, đâu có cao
thấp, mập ốm cũng đâu có tướng nam, nữ. Người nam cũng có tâm Phật,
người nữ cũng có đủ, và đó thật sự là chân lý bình đẳng, không phân
biệt. Hiểu được tình trạng này rồi, quý thầy hoặc quý cô ở chùa,
hoặc là phật tử hiểu đạo gặp nhau cùng chắp tay xá nhéu, cùng ý
thức việc làm có ý nghĩa.
Chúng ta chắp tay xá nhau đó là đang nhắc nhau nhớ
lại tâm Phật. Xá chào đó không phải là xá cái xác này, mà là xá cái
gì sâu xa ở bên trong. Khi gặp anh thì tôi xá ông Phật của anh, còn
người kia thì tôi xá ông Phật của chị. Vậy là cùng nhắc nhéu tu
hành.
Quý vị thấy như vậy có hay, có quý không? Nơi nào
chúng ta cũng có khả năng nhắc nhau tu, cũng có khả năng gặp Phật
được. Vậy thì chỉ một cái xá mang rất nhiều ý nghĩa ở trong
đó.
Từ đây về sau, mỗi khi chắp tay xá nhau là biết
tôi đang xá ông Phật của anh, nhắc nhở anh trở về ông Phật của anh.
Người kia lại xá ông Phật của chị. Vậy mỗi người cùng nhắc nhở
nhau. Cùng tu như vậy thì càng gần gũi, thân thiện với nhéu, vậy
thì quá hay rồi!
Chúng ta học Phật, hiểu Phật rồi ứng dụng sống,
mới thật là ý nghĩa. Quý vị thấy trình bày như vậy là đã có giảng
Pháp Hoa cho quý vị nghe chưa? Đó là giảng kinh Pháp Hoa rồi. Kinh
Pháp Hoa là như vậy. Nếu không thì quý vị nghĩ giảng Pháp Hoa là
phải đọc qua 28 phẩm, rồi giảng từ từ cho quý vị nghe thì phải mất
thời gian mấy tháng. Ở đây, chỉ nói cô đọng nhưng chính là giảng
Pháp Hoa. Đó là kinh Pháp Hoa mà đức Phật đã từng tán thán: “Kinh
Pháp Hoa là vua các kinh, tụng Pháp Hoa là phước đức vô lượng
v.v..” Chính đó là bộ kinh Pháp Hoa sống mà đức Phật muốn chỉ. Còn
bộ kinh Pháp Hoa 28 phẩm mà quý vị tụng hằng ngày gọi là văn tự
Pháp Hoa, đọc kinh đó để nhắc nhở bộ Pháp Hoa sống nơi chính
mình.
Từ bộ Pháp Hoa sống đó mới được thành Phật. Đó
chính là chỗ Phật khai thị, gọi là tri kiến Phật. Từ nay về sau quý
vị hiểu được Pháp Hoa, biết được cách tụng Pháp Hoa là tiến thêm
một bước. Vậy thì, chúng ta vừa tụng Pháp Hoa văn tự, vừa hiểu được
ý nghĩa sâu của Pháp Hoa, như vậy mới thật sự hiểu được Phật. Các
đệ tử Phật sau này trì tụng được như vậy thì Ngài rất vui.
Bởi vì Phật dạy tụng Pháp Hoa là để khai thị ngộ
nhập tri kiến Phật, mỗi ngày càng tăng trưởng công đức lành, bớt
phiền não được an vui.
Mong quý vị từ đây hiểu được Pháp Hoa, mỗi khi gặp
nhau chấp tay xá chào là cũng đang tụng Pháp Hoa, đó cũng là một ý
nghĩa thường khai Tri Kiến Phật.
Xoay đầu là bờ
mé
Chính từ lẽ thật này mà người tu hành không thấy
có gì xa xôi, mà chỉ có một điều là mê với giác thôi. Mê là chúng
sinh, giác là Phật. Mà cái mê cái giác đó từ đâu có? Cũng ngay nơi
tâm của mỗi người chứ không ở đâu cả. Chính do tâm mà mê, chứ ngoài
tâm lấy gì mê? Nhưng chính nó mê thì cũng chính nó giác. Cho nên mê
giác cũng từ nơi tâm.
Trong nhà Phật nói: “Hồi đầu thị ngạn”, tức quay đầu là bờ. Đôi
khi người học chỉ biết giải thích trên chữ nghĩa, cuối cùng không
biết đâu là bờ? Quay đầu lại chỗ nào? Tức thấy ngay đó nếu tâm mê
liền đi vào sinh tử, là bờ luân hồi sinh tử; cũng ngay đó mà giác
trở lại tức là bờ giải thoát, là bờ kia.
Vậy bờ kia cũng ngay nơi tâm mình chứ không đâu
khác. Có nghĩa là ngay một niệm giác liền vượt qua cả hằng sa kiếp
mê chứ không phải tầm thường. Nghĩa là từ hằng sa kiếp không sáng
tỏ được, giờ đây ngay một niệm đó mình giác trở lại thấy rõ được lẽ
thật, tức là vượt hằng sa kiếp mê!
Nhưng đó chỉ mới vượt nơi một niệm, nên còn phải
tu nữa tu tiếp. Nếu được niệm niệm liên tục như vậy thì hay, là
hằng giác, thường giác.
Nhà thiền có câu chuyện: Tổ Quy Sơn hỏi đệ tử là
ngài Ngưỡng Sơn sau thời gian đi giáo hóa trở về thăm: “Chúng sinh
ở trên quả đất này, nghiệp thức mênh mông không có bờ mé gì, không
có gốc có thể tựa, thì con làm sao biết họ có hay là chẳng có?”
Ngài Ngưỡng Sơn thưa: “Con có chỗ kinh nghiệm”. Lúc đó, có vị tăng
đi ngang qua trước mặt, Ngưỡng Sơn liền gọi: “Xà lê!”, ông tăng đó
xoay đầu ngó lại. Ngài liền thưa với Tổ Quy Sơn: “Bạch Hòa thượng!
Chính cái này là nghiệp thức mênh mông không gốc có khả năng tựa”.
Quý vị thấy nghiệp thức mênh mông đó ở chỗ nào?
Ngài Quy Sơn khen: “Một giọt sữa sư tử có thể làm
tan cả sáu đấu sữa lừa”.
Nghe tiếng gọi “Xà lê! ”, ông tăng nghĩ là gọi
mình, liền xoay đầu trở lại, sao lại bảo là nghiệp thức mênh mông
không bờ mé? Vì ông tăng kia chỉ nhớ âm thanh gọi của người mà quên
không nhớ cái đang biết nghe nơi mình, đó là lang thang nơi xứ
người, là đi trong sinh tử luân hồi vậy.
Nếu khi nghe gọi, liền nhớ trở lại cái đang nghe
mà không lầm theo âm thanh kia, ngay đó liền nhổ được gốc mê từ xa
xưa. Đó là chỗ sống trở về của chúng ta. Tuy nghiệp thức mênh mông,
không gốc để tựa, nhưng chính vì không gốc nên có thể nhổ nó lên
bất cứ lúc nào. Vì nếu mà có gốc thì khó tu. Thí dụ nó có gốc mê từ
một vạn kiếp rồi, giờ đây muốn nhổ gốc nó thì phải làm sao? Thì
cũng phải đợi một vạn kiếp nữa, và đã có gốc thì nhổ lên rồi bỏ đi
đâu? Nhưng ở đây ngay một niệm tỉnh giác trở lại, liền chuyển cái
mê lầm đó liền. Chính đây là một lẽ thật để chúng ta thấy rõ và tin
tưởng nơi mình có thể tiến đến giác ngộ.
Phật dạy trong kinh Lăng Nghiêm rằng:
“Những người tu hành không thể thành
tựu được quả Vô thượng Bồ đề, cho đến thành Thanh Văn, Duyên Giác,
Ma Vương hay quyến thuộc của ma, đều do chẳng biết hai thứ căn bản
rồi tu tập lầm lộn.
Thứ nhất là căn bản
sinh tử từ vô thủy. Nghĩa là chính ông Hiện tại và các chúng sinh,
dùng tâm phan duyên làm tự tính. Thứ hai là thể Bồ đề, Niết bàn
thanh tịnh sẵn có từ vô thủy, chính là thức tinh nguyên minh của
ông hiện nay hay sinh các duyên mà bị các duyên bỏ sót nó. Do các
chúng sinh bỏ sót tính sáng suốt sẵn có này, nên tuy trọn ngày tu
hành mà chẳng tự giác, uổng đi vào trong các thú”.
Ai biết “tâm phan duyên” là thế nào? Tức là nó nhớ
theo duyên, theo cảnh mà quên mất chính mình. Là tâm nghĩ tưởng cái
này cái kia hoài. Như là nghe tiếng gọi thì chỉ nhớ âm thanh thôi,
thì đó là tâm phan duyên, là con đường mê đi vào sinh tử.
Còn “thức tinh nguyên minh” tức là cái biết vốn
sẵn đang sáng ngời đây, nó hay nảy sinh các duyên mà bị các duyên
bỏ sót nó. “Các thú” tức là các đường luân hồi.
Ý Phật dạy đoạn kinh trên là do vì chúng sinh nhận
tâm duyên theo cảnh làm mình, nên mê lầm phải đi vào luân hồi sinh
tử. Còn thể Bồ đề Niết bàn sẵn có thì cũng ở ngay cái biết vốn sáng
suốt Hiện tại đây, gọi là thức tinh nguyên minh. Chính nó hay phát
sinh các duyên tức là nó sinh biết cái này, biết kia, biết nọ, biết
bình hoa, biết cái bàn, cái ghế, biết bức tường, bức vách, biết đủ
thứ hết v.v…
Nhưng khi nó biết thì chỉ nhớ các duyên như cái
bàn, cái ghế, bình hoa, bức tường v.v… thôi mà nó bỏ sót chính nó,
là cái sáng suốt đang hiện hữu đây. Như từ đầu đến giờ, quý vị đọc
qua những hàng chữ này mà có bỏ sót chính nó không? Nếu nhớ mà
không bỏ sót chính nó, đó là thể Bồ đề Niết bàn, là chỗ trở về thì
tâm Phật đó!
mặc khác, xin nhắc mỗi người phải khéo nhận rõ chỗ
này, nếu không cứ ngỡ tu rồi không biết gì hết, trở thành cây đá.
Tuy không theo tất cả duyên bên ngoài, không đồng hóa mình với tất
cả duyên đó nhưng biết rõ ràng không mê.
|
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet) |
Chính chỗ này ngày xưa trong kinh Lăng Nghiêm, đức
Phật quở ngài A Nan. Phật giơ tay lên hỏi ngài A Nan thấy không?
Ngài A Nan thưa là: Thấy. Phật để tay xuống hỏi thấy không? Ngài A
Nan nói: Không thấy. Phật quở ngài A Nan sao mà điên đảo.
Quý vị thấy mình có giống như vậy không? Đưa tay
lên thì có thấy, để tay xuống thì không thấy. Nhưng có thật là
không thấy chăng? Nếu không thấy thì chắc mù rồi. Không thấy là chỉ
không thấy cái tay, song vẫn thấy cái bàn, cái ghế, thấy tượng
Phật. Nhưng khi trả lời như vậy là tự đồng hóa cái thấy của mình
với cái tay, cho cái tay là thấy, nên có tay thì có thấy, không có
tay thì nói không thấy. Chính đó là chỗ bỏ sót chính mình, lầm mê
là chỗ đó!
Nên Phật mới nhắc là chúng ta thấy cái tay, thấy
người, thấy vật, cái gì cũng thấy cũng biết, nhưng cũng đừng quên
cái gốc đang thấy ở nơi chính mình. Vậy thì mê, ngộ là ngay hiện
tiền đây chớ không ở đâu khác hết, gọi “xoay đầu là bờ mé” là như
vậy.
Thiền sư Tư Nghiệp trước khi giác ngộ, ngài là một
ông đồ tể giết heo. Một hôm, đang giết con heo chợt ngài tỉnh ngộ.
Ngài liền bỏ dao mổ heo tìm đến Thiền sư Văn Thù – Tâm Đạo xuất gia
tu và sau này trở thành thiền sư. Ngài có làm bài kệ:
Tạc nhật Dạ xoa tâm
Kim triêu Bồ tát diện.
Bồ tát dữ Dạ xoa
Bất cách nhất điều tuyến.
Hôm qua tâm Dạ xoa
Sáng nay mặt Bồ tát.
Bồ tát với Dạ xoa
Chẳng cách một đường tơ.
Mới đó là mê, là Dạ xoa, bây giờ giác trở lại thì
chuyển thành Bồ tát. Qua đó, quý vị không phải mặc cảm rằng mình
nghiệp nặng nghiệp xấu khó tu. Nếu nghiệp nặng xấu nhưng mà biết
khéo tỉnh giác, khéo chuyển lại thì đều có khả năng tiến tu được
cả.
Tóm
kết
Ai cũng đều đặn có tâm Phật, đây là một lẽ thật
muôn đời, là một “thông điệp cho tất cả chúng sinh”. Chính đó là
một niềm tin, đem lại sức mạnh giúp mọi người vươn lên, không còn
mặc cảm tội lỗi, cũng không phải chạy tìm cầu bên ngoài.
Trong bài Cư Trần Lạc Đạo, vua Trần Nhân Tông
nói:
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
Cơ tắc san hề khốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên,
Đói đến thì ăn mệt ngủ liền.
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm,
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền.
Muốn sống ngay trong cuộc đời này mà vui được với
đạo, thì hãy khéo biết tùy duyên. Nghĩa là đói đến thì ăn, mệt ngủ
liền, là tùy thuận theo mọi hoàn cảnh, mọi đời sống mà không để mất
mình, không để sinh tâm thêm ở trong đó. Sống trong hoàn cảnh nào
cũng không để biến chất theo hoàn cảnh.
Ở đây nói đói thì ăn, rồi mệt thì ngủ là không có
sinh tâm thêm ở đó. Tức không có sinh tâm ăn, không có sinh tâm ngủ
thêm.
Còn mình ăn thì có sinh thêm tâm ăn, ngủ thì cũng
sinh thêm tâm ngủ. Sao là sinh tâm ăn? Khi ăn đòi ngon đòi dở, nếu
mà dở thì không muốn ăn, vậy đâu phải đói đến là ăn. Còn ngủ cũng
vậy. Tối đến ngủ phải có phương tiện này, phương tiện kia, hoặc tới
khi ngủ mà cũng còn nghĩ ngợi lung tung, thì tức nhiên đâu có mệt
ngủ liền.
“Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền”
Đây chính là chỗ nhắc nhở mỗi người: trong nhà
mình đều đặn có tâm Phật, đều có chân lý giác ngộ. Nếu người biết
khai thác, biết chuyển hóa thì có thể từ người xấu thành người tốt,
đó mới chính là tu.
Còn nếu chỉ hiểu như thuyết số mệnh hay định mệnh,
ai sinh ra thì cũng có số mệnh, định mệnh định sẵn nghèo là phải
nghèo, giàu là giàu mãi, hoặc xấu là xấu mãi, tốt là tốt mãi. Như
vậy thì đâu cần tu nữa vì số đã định rồi. Còn ở đây thì Phật dạy
không phải như vậy. Mọi người đều có tâm Phật, có của báu ở trong
nhà, đều có thể tu, như bà Liên Hoa Sắc là người phụ nữ tội lỗi
nặng nề mà cũng giác ngộ tu chứng A La Hán.
Chính quý thầy, quý cô cũng vậy. Khi sinh ra đời
còn nhỏ cũng mê, có người cũng lầm lạc vậy. Nhưng sau đó được nhắc
nhở, được đánh thức thì tỉnh giác rồi tu hành. Cũng có những người
xấu, nhưng khi được nghe Phật pháp, cũng tỉnh rồi chuyển hóa thành
người tốt, đó là tu. Đây là điều nhắc nhở cho mọi người có niềm
tin.
Trong kinh Kim Cang có một đoạn Phật dạy rằng:
“Như Lai nói là phàm phu tức chẳng
phải phàm phu, đó gọi là phàm phu”. Vì thường nghĩ mình là
phàm phu, là chúng sinh như vậy chắc khó tu giác ngộ, nhưng Phật
dạy phàm phu tức chẳng phải phàm phu là sao? Vì phàm phu không có
cố định phải là phàm phu mãi, đó chỉ là một cái tên. Nếu phàm
phu mà giác ngộ thì chuyển thành Thánh, Hiền, Phật, hết còn phàm
phu.
Rồi Phật cũng là cái tên. nhiều khi chúng ta mắc
kẹt trên cái tên, có khi cãi vã trên cái tên nữa. Như cái tên Phật,
nó có biết gì là giác ngộ không? Mà cái biết giác ngộ là ở ngay nơi
mình, trong tâm mình. Nếu khóe nhật rõ như vậy, thì tin tưởng rằng
mỗi người đang ngồi đây, là phàm phu tức chẳng phải là phàm phu.
Thật vui sướng thay!
Mong rằng mỗi người đều có đầy đủ niềm tin, thì
mình sống và hiểu nhau, thông cảm được nhéu để cùng giúp nhéu tu
tiến và chuyển cái chúng sinh mê lầm này.
Thượng tọa Thích
Thông PhươngNguồn
link: http://thuongchieu.net/index.php/phapthoai/thaytruclam/3874-aicungcotamphat
Nam mô a di đà Phật ????????????