Quyền tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015

Bài viết Quyền tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 thuộc chủ đề về Giải Đáp thời gian này đang được rất nhiều bạn quan tâm đúng không nào !! Hôm nay, Hãy cùng https://khoalichsu.edu.vn/hoi-dap/ tìm hiểu Quyền tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 trong bài viết hôm nay nhé ! Các bạn đang xem chủ đề về : “Quyền tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015”

Đánh giá về Quyền tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015


Xem nhanh

ThS. NGUYỄN HOÀNG LONG (Đại học Luật Hà Nội) – Quyền của cải/tài sản là một loại tài sản vô hình đặc biệt được quy định trong thường xuyên văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam như Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005… tuy nhiên, với tính chất là luật chung của hệ thống luật tư, Bộ luật Dân sự năm 2015 vẫn chưa xây dựng được hệ thống các quy định hoàn chỉnh về quyền của cải/tài sản. Việc tiếp tục thống kê, hoàn thiện quy định của pháp luật về quyền tài sản là một mong muốn thực tế và cấp bách đặt ra cho các nhà khoa học của Việt Nam.

1.Quyền của cải/tài sản là gì?

Kế thừa quy định của Bộ luật Dân sự năm 1995, Bộ luật Dân sự năm 2005 đã định nghĩa: “Quyền của cải/tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có khả năng chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ” (Điều 181)Từ định nghĩa này, có khả năng rút ra được hai đặc điểm cơ bản của quyền tài sản theo quan điểm của những người soạn thảo Bộ luật Dân sự năm 2005: Một là,quyền của cải/tài sản phải có giá trị kinh tế – trị giá được bằng tiền; hai là,quyền của cải/tài sản có thể được chuyển giao trong giao dịch dân sự (có thể là đối tượng của hợp đồng mua bán, tặng cho hoặc để thừa kế…). Việc quy định như vậy đã dẫn đến có thường xuyên quan điểm trái chiều xung quanh vấn đề một số quyền mang lại lợi ích kinh tế cho con người nhưng không được pháp luật cho phép chuyển giao trong các giao dịch dân sựcó được coi là quyền tài sản không? Ví dụ như quyền bắt buộc cấp dưỡng, quyền bắt buộc bồi thường thiệt hại do tính mạng, thể trạng, danh dự, uy tín, nhân phẩm bị xâm phạm…

Khắc phục những Giảm của Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 ghi nhận: “Quyền của cải/tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền của cải/tài sản khác”.Từ quy định này có khả năng thấy, theo quan điểm của những người soạn thảo Bộ luật Dân sự năm 2015, quyền của cải/tài sản chỉ còn mang một đặc điểm duy nhất “có khả năng trị giá được bằng tiền”-tức là bất kỳ quyền nào đen lại giá trị kinh tế cho con người sẽ được coi là quyền tài sản. Những người soạn thảo Bộ luật Dân sự năm 2015 cho rằng bản chất của quyền của cải/tài sản chỉ cần nhìn nhận ở góc độ tổng giá trị kinh tế của nó (tức là trị giá được bằng tiền), việc có được chuyển giao hay không được chuyển giao trong giao dịch dân sự chỉ nhằm mục đích xác định những quyền của cải/tài sản nào sẽ là đối tượng của các giao dịch dân sự chứ đó không phải là đặc điểm của quyền của cải/tài sản. Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 còn liệt kê các loại quyền của cải/tài sản bao gồm: Quyền đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và quyền tài sản khác. Xét cho cùng quy định này cũng không phải là một định nghĩa hoàn chỉnh về quyền tài sản mà nó nằm ở giữa ranh giới giữa một quy phạm định nghĩa và một quy phạm liệt kê.

Theo quan điểm của GS. Nguyễn Ngọc Điện thì“quyền của cải/tài sản trong luật thực định Việt Nam được hiểu là quan hệ pháp luật khác với quan hệ sở hữu mà trên cơ sở quan hệ khác đó, một lợi ích định giá được bằng tiền hình thành và thuộc về một chủ thể của quan hệ đó”[1]. Khi nghiên cứu về đề này, PGS.TS Phùng Trung Tập lại cho rằng: “Quyền tài sản có khả năng được hiểu theo nghĩa rộng là tổng hợp các quyền và lợi ích của chủ thể trong việc chi phối, kiểm soát của cải/tài sản gồm chủ sở hữu và người có quyền khác với tài sản”[2]. Rõ ràng, ở góc độ lý luận, còn có thường xuyên cách hiểu chưa thống nhất về quyền của cải/tài sản, việc quy định một định nghĩa chính xác về quyền tài sản trong Bộ luật Dân sự là hết sức cần thiết, mặc khác việc quy định như thế nào, sao cho chính xác, hợp lý thì không đơn giản.

2.Phân loại quyền tài sản và những bất cập, kiến nghị2.1. Quyền đối vật và quyền đối nhân

Căn cứ vào cách thức thực hiện quyền chủ chủ thể, quyền của cải/tài sản trong Bộ luật Dân sự năm 2015 có khả năng được chia làm hai nhóm, quyền đối vật và quyền đối nhân. Trong quan niệm của người La-tinh, khối tài sản có của một người được tạo thành từ hai loại quyền: Quyền đối vật – tức là các quyền được thực hiện trên các vật cụ thể và xác định; quyền đối nhân – bao gồm các quyền tương ứng với các nghĩa vụ của cải/tài sản mà người khác phải thực hiện vì lợi ích của người có quyền[3]. Hiểu một cách khái quát, quyền đối vật là quyền của chủ thể được thực hiện các hành vi trực tiếp trên những vật cụ thể mà không cần sự cho phép hay hợp tác của các chủ thể khác. Các quyền của cải/tài sản thể hiện dưới dạng quyền đối vật trong Bộ luật Dân sự năm 2015 có thể kể đến là quyền sở hữu, quyền hưởng dụng, quyền bề mặt, quyền đối với bất động sản liền kề; quyền của bên bảo đảm đối với của cải/tài sản bảo đảm…

Mọi Người Xem :   Gợi ý 30+ món quà tặng mẹ 20/10 thiết thực và ý nghĩa nhất

Về mặt tính chất, các quyền đối vật mang những mức độ khác nhau (đầy đủ và không đầy đủ). Quyền đối vật đầy đủ toàn diện nhất được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự năm 2015 chính là quyền sở hữu. Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật (Điều 158 Bộ luật Dân sự năm 2015).Quyền sở hữu cho phép người có quyền khai thác trọn vẹn năng lực tạo tổng giá trị vật chất, kinh tế của của cải/tài sản. Chính chủ sở hữu là người có quyền tối hậu định đoạt của cải/tài sản (thông qua việc bán, tặng cho, để thừa kế…). Việc khai thác tác dụng, dùng tài sản của chủ sở hữu luôn được đặt trong một giới hạn do luật định nhằm phục vụ cho lợi ích chung của xã hội, của nhà nước. Ví dụ, Bộ luật Dân sự đặt ra các Giảm (giới hạn độ cao xây dựng) – “địa dịch” đối với các bất động sản ở sân bay, ở các khu đô thị được quy hoạch, ở quanh khu vực lăng Bác (điển hình là việc xây dựng quá độ cao của ngôi nhà số 8B Lê Trực đã bị cưỡng chế tháo dỡ mặc dù đã được cấp phép). Quyền sở hữu của chủ sở hữu cũng bị Giảm định đoạt trong một vài trường hợp nhất định. Ví dụ, khi định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung, tài sản là di tích lịch sử văn hóa phải dành quyền ưu tiên mua cho các đồng chủ sở hữu chung còn lại hoặc cho Nhà nước.

Dưới góc độ thụ động, người có quyền sở hữu “được quyền” không thực hiện quyền của mình. tuy nhiên, trong một số trường hợp chủ sở hữu buộc phải sử dụng, phải định đoạt của cải/tài sản dù có muốn hay không. Ví dụ, người dùng đất có nghĩa vụ dùng đất, nếu đất đai không được sử dụng liên tục trong một thời gian dài, kể cả việc sử dụng không đúng mục đích, sẽ bị thu hồi mà không có đền bù (Điều 64, Điều 82 Luật Đất đai năm 2013).

Bên cạnh những quyền đối vật đầy đủ còn có những quyền đối vật không đầy đủ. Điển hình cho những quyền đối vật không đầy đủđược quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015 là quyền hưởng dụng (Điều 257), quyền bề mặt (Điều 267), quyền đối với bất động sản liền kề(Điều 245), quyền của bên bảo đảm đối với tài sản bảo đảm (quyền của người cầm cố đối với tài sản cầm cố, quyền của người nhận thế chấp đối với của cải/tài sản thế chấp). Bản chất của những quyền này là sự phân rã của quyền sở hữu. Ở góc độ nào đó, chủ sở hữu đã chuyển giao cho các chủ thể khác một vài quyền năng đối với tài sản của mình (chuyển giao quyền chiếm hữu, quyền khai thác tác dụng, hưởng hoa lợi hay lợi tức từ tài sản trong một thời hạn nhất định) thông qua một giao dịch dân sự hoặc theo quy định của pháp luật. tuy nhiên, trong mọi trường hợp chủ sở hữu luôn giữ lại cho mình quyền định đoạt tài sản.

Đối lập với quyền đối vật là quyền đối nhân. Quyền đối nhân được thiết lập trong mối quan hệ giữa hai người, hai chủ thể của quan hệ pháp luật.có thể hiểu, quyền đối nhân là quyền cho phép một người bắt buộc một người khác đáp ứng đòi hỏi của mình nhằm thoả mãn một nhu cầu gắn liền với một lợi ích vật chất của mình.Mối quan hệ giữa hai người này còn gọi là quan hệ nghĩa vụ[4]. Bản chất quyền đối nhân là quyền của chủ thể (chủ thể quyền) được yêu cầu một chủ thể khác (chủ thể có nghĩa vụ) phải thực hiện một hành vi nhất định, nói cách khác quyền của chủ thể quyền trong quan hệ nghĩa vụ chỉ được thỏa mãn thông qua hành vi thực hiện nghĩa vụ của chủ thể có nghĩa vụ. Tiêu biểu cho các quyền tài sản dưới dạng quyền đối nhân theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 gồm quyền đòi nợ, quyền yêu cầu cấp dưỡng, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do tính mạng, thể trạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm…

2.2. Quyền tài sản có thể chuyển giao và quyền của cải/tài sản không thể chuyển giao

Bản chất các quyền của cải/tài sản là một dạng tài sản theo quy định của Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015. Khi nhìn nhận quyền tài sản với tư cách là đối tượng của giao dịch dân sự, thì Bộ luật Dân sự năm 2015 phải xác định rõ các quyền của cải/tài sản nào có thể là đối tượng của giao dịch dân sự (được phép chuyển giao), các quyền của cải/tài sản nào không thể trở thành đối tượng của giao dịch dân sự (không được phép chuyển giao). Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Quyền của cải/tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền của cải/tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền của cải/tài sản khác”. Rõ ràng, Bộ luật Bộ luật Dân sự năm 2015 không liệt kê những quyền của cải/tài sản nào được phép chuyển giao là đối tượng của các giao dịch dân sự và những quyền của cải/tài sản nào không được phép chuyển giao không thể là đối tượng của các giao dịch dân sự. Có hai vấn đề cần được làm rõ ở đây: Thứ nhất, liệu tất cả các quyền tài sản đều đặn có khả năng trở thành đối tượng của giao dịch dân sự? Thứ hai, phải chăng chỉ có những quyền tài sản chi tiết được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015 hoặc trong các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Dân sự năm 2015 mới có khả năng là đối tượng của các giao dịch dân sự?

Mọi Người Xem :   Tình yêu ngọt ngào như Cappuccino

Trước đây, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định các quyền của cải/tài sản được phép đem ra bảo đảm là đối tượng của các giao dịch bảo đảm: “Các quyền của cải/tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm bao gồm quyền tài sản sinh ra từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm, quyền tài sản đối với phần vốn góp trong Doanh nghiệp, quyền của cải/tài sản sinh ra từ hợp đồng, quyền sử dụng đất, quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên và các quyền tài sản khác thuộc sở hữu của bên bảo đảm đều được sử dụng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự” (Điều 322). Kế thừa khoản 3 Điều 379 Bộ luật Dân sự năm 2005, khoản 3 Điều 377 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp nghĩa vụ là nghĩa vụ cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, thể trạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các nghĩa vụ khác gắn liền với nhân thân không thể chuyển cho người khác được thì không được thay thế bằng nghĩa vụ khác”. Hiểu rộng ra, quy định này chỉ hạn chế một vài quyền tài sản không được thay thế, chuyển giao trong các quan hệ nghĩa vụ như quyền bắt buộc cấp dưỡng, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do tính mạng, thể trạng, uy tín và các quyền tài sản gắn liền với nhân thân khác. Theo nguyên tắc, các chủ thể của pháp luật dân sự được làm bất kỳ những gì luật không cấm, điều này đồng nghĩa với việc Bộ luật Dân sự năm 2015 cho phép một vài quyền của cải/tài sản khác được chuyển giao (là đối tượng của các giao dịch dân sự). Ví dụ,quyền của cải/tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm…

2.3. Quyền của cải/tài sản được thực hiện trên vật hữu hình, quyền tài sản được thực hiện trên vật vô hình và quyền tài sản được thực hiện thông qua hành vi của con người

Căn cứ vào đối tượng tác động của quyền, quyền tài sản có khả năng được phân chia làm ba nhóm: Các quyền tài sản có đối tượng thực hiện trên những vật hữu hình (vật chất liệu); các quyền tài sản được thực hiện trên vật vô hình và các quyền tài sản được thực hiện thông qua hành vi của con người.

Nhóm các quyền tài sản có đối tượng thực hiện trên các vật hữu hình, có khả năng kể đến như quyền sử dụng đất; quyền sở hữu có đối tượng là vật hữu hình; các quyền hưởng dụng, quyền bề mặt… Đặc trưng của nhóm quyền này là chủ thể quyền được thực hiện những hành vi ảnh hưởng trực tiếp lên vật hữu hình để thỏa mãn quyền mà không cần đến sự giúp đỡ hay cho phép của chủ thể khác. Lưu ý ở đây đối tượng của quyền phải là vật hữu hình (đất đai, nhà ở, xe máy, ô tô, máy tính…). Do vậy, để có thể thực hiện được quyền của mình thì các chủ thể quyền luôn phải thực hiện hành vi chiếm hữu thực tế đối với của cải/tài sản. Việc chiếm hữu thực tế tài sản ở góc độ nào đó là một hình thức công khai quyền của chủ thể đối với những người thứ ba khi muốn xác lập quyền lên vật.

Nhóm các quyền của cải/tài sản có đối tượng thực hiện trên các vật vô hình gắn liền với vận hành phát minh, sáng chế, có khả năng kể đến như quyền đối với sáng chế, quyền đối với giải pháp hữu ích, quyền của cải/tài sản là đối tượng của quyền tác giả… Cũng giống như nhóm quyền có đối tượng thực hiện trên vật hữu hình, chủ thể quyền ở đây cũng được chủ động thực hiện hành vi để thỏa mãn quyền của mình mà không cần đến sự đồng ý hay giúp đỡ của người khác. tuy nhiên, có điểm khác biệt với nhóm quyền trên các vật hữu hình ở chỗ, đối tượng của quyền ở đây là những “vật vô hình”. Điều này đồng nghĩa với việc thực hiện quyền của chủ thể không nhất thiết phải chiếm hữu của cải/tài sản trên thực tế. Đặc điểm này dẫn đến hệ quả việc công khai quyền của chủ thể quyền phải được thực hiện thông qua cơ chế đăng ký quyền tạicơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Nhóm các quyền tài sản có đối tượng là hành vithực hiện nghĩa vụ của người khác: Các quyền của cải/tài sản thuộc nhóm này có khả năng được kể đến như quyền đòi nợ, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, quyền bắt buộc bồi thường thiệt hại theo hợp đồng… Đặc trưng cơ bản của nhóm quyền này là các chủ thể quyền muốn thỏa mãn được quyền của mình luôn cần đến sự “giúp đỡ” của chủ thể khác (sự thực hiện nghĩa vụ của chủ thể mang nghĩa vụ). Người chủ nợ không thể nào có được khoản tiền cho vay nếu con nợ không thực hiện nghĩa vụ trả nợ.

Mọi Người Xem :   Luận giải quẻ Trạch Địa Tụy và ý nghĩa quẻ số 45 chính xác nhất

2.4. Quyền của cải/tài sản phải đăng ký và quyền của cải/tài sản không phải đăng ký

Để xác định những quyền tài sản nào phải đăng ký, quyền của cải/tài sản nào không phải đăng ký thì không chỉ dựa vào quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 mà còn dựa vào các luật chuyên ngành liên quan như: Luật Sở hữu trí tuệ; Luật Đất đai. Theo các văn bản này, các quyền tài sản phải đăng ký bao gồm: Quyền sử dụng đất; quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý[5]. Việc đăng ký quyền dùng đất được thực hiện ở Văn phòng đăng ký đất đai hoặc Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất đối với nơi chưa thành lập Văn phòng đăng ký đất đai hoặc bộ phận một cửa đối với địa phương đã tổ chức bộ phận một cửa để thực hiện việc tiếp nhận giấy tờ và trả kết quả theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Việc đăng ký quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được thực hiện ở Cục Sở hữu trí tuệ trực thuộc Bộ Khoa học – Công nghệ. Đối với trường hợp luật không có quy định bắt buộc có thể dùng phương pháp loại trừ, quyền của cải/tài sản khác không phải là những quyền của cải/tài sản trên không bắt buộc phải đăng ký.

có thể nói, việc đăng ký quyền tài sản có ý nghĩa rất lớn đối với Nhà nước và đối với các chủ thể liên quan. Đối với Nhà nước, việc yêu cầu đăng ký quyền tài sản giúp cho Nhà nước quản lý được sự lưu thông các quyền tài sản này trong xã hội. và cạnh đó, nó giúp cho Nhà nước xây dựng các chính sách thuế có liên quan (thuế mức lương, thuế chuyển nhượng, phí trước bạ sang tên và những loại phí liên quan khác). Trong các hợp đồng có đối tượng là quyền tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, thông thường pháp luật Việt Nam quy định hợp đồng sẽ có hiệu lực vào thời điểm công chứng hoặc chứng thực. Thời điểm hoàn thành việc đăng ký chuyển giao quyền chính là thời điểm để chủ sở hữu mới có quyền “đối kháng” với người thứ ba khi có tranh chấp.

Bộ luật Dân sự năm 2015 lần đầu tiên ghi nhận hai quyền khác đối với tài sản là quyền hưởng dụng và quyền bề mặt. Điều đó một mặt tạo cơ sở pháp lý quan trọng, đẩy nhanh giao lưu dân sự trên cơ sở tôn trọng các quy luật khách quan của thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế; đảm bảo tốt hơn cho các của cải/tài sản khi tham gia lưu thông dân sự được tối đa hóa giá trị, do không chỉ chủ sở hữu mà còn cả những người không phải là chủ sở hữu được phép khai thác của cải/tài sản. mặt khác, đây cũng là công cụ pháp lý hữu hiệu để giải quyết các tranh chấp nảy sinh trên thực tiễn, hạn chế được rủi ro pháp lý, giữ được sự ổn định của các quan hệ dân sự và các quan hệ khác có liên quan. Việc Bộ luật Dân sự năm 2015 không quy định bắt buộc các chủ thể phải đăng ký các quyền khác đối với của cải/tài sản (bao gồm quyền hưởng dụng, quyền bề mặt và quyền đối với bất động sản liền kề) tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền đồng nghĩa với việc không có cơ chế công khai việc xác lập các quyền này cho các chủ thể khác trong xã hội. Đây có khả năng là tác nhân tiềm ẩn sinh ra thường xuyên tranh chấp dân sự có liên quan sau này. Vấn đề đặt ra cho pháp luật dân sự Việt Nam là cần phải xây dựng một cơ chế pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp củangười thứ ba ngay tình khi tham gia xác lập giao dịch dân sự đối với các của cải/tài sản đã được xác lập quyền hưởng dụng, quyền bề mặt hay quyền dùng Giảm trên đó.

mặc khác, cũng phải thấy rằng, việc đăng ký của cải/tài sản nói chung hay các quyền của cải/tài sản nói riêng ở Việt Nam Hiện tại được thực hiện chưa nghiêm túc. Có thường xuyên nguyên nhân kéo theo điều này như hồ sơ hành chính còn rườm rà, lệ phí cao so với mức sống trung bình của người dân, đặc biệt phải kể đến do ý thức chấp hành pháp luật của người dân còn chưa tốt.Đây là một thực tế gây ra ra thường xuyên khó khăn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi có tranh chấp liên quan.

Theo http://tcdcpl.moj.gov.vn


[1] TS. Nguyễn Ngọc Điện, Cần xây dựng lại khái niệm “Quyền của cải/tài sản” trong Luật Dân sự.

[2] PGS.TS. Nguyễn Văn Cừ – PGS.TS. Trần Thị Huệ, “Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự 2015”, Nxb. Công An Nhân Dân.

[3]Nguyễn Ngọc Điện, một số vấn đề lý luận về quyền của cải/tài sản và hướng hoàn thiện.

[4]Nguyễn Ngọc Điện, một số vấn đề về quyền của cải/tài sản và hướng hoàn thiện, năm 2010.

[5]Điểm a khoản 3 Điều 6 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005.



Các câu hỏi về quyền tài sản khác là gì


Nếu có bắt kỳ câu hỏi thắc mắt nào vê quyền tài sản khác là gì hãy cho chúng mình biết nhé, mõi thắt mắt hay góp ý của các bạn sẽ giúp mình cải thiện hơn trong các bài sau nhé <3 Bài viết quyền tài sản khác là gì ! được mình và team xem xét cũng như tổng hợp từ nhiều nguồn. Nếu thấy bài viết quyền tài sản khác là gì Cực hay ! Hay thì hãy ủng hộ team Like hoặc share. Nếu thấy bài viết quyền tài sản khác là gì rât hay ! chưa hay, hoặc cần bổ sung. Bạn góp ý giúp mình nhé!!

Các Hình Ảnh Về quyền tài sản khác là gì


Các hình ảnh về quyền tài sản khác là gì đang được chúng mình Cập nhập. Nếu các bạn mong muốn đóng góp, Hãy gửi mail về hộp thư [email protected]. Nếu có bất kỳ đóng góp hay liên hệ. Hãy Mail ngay cho tụi mình nhé

Tham khảo tin tức về quyền tài sản khác là gì tại WikiPedia

Bạn hãy tìm thêm thông tin về quyền tài sản khác là gì từ web Wikipedia.◄ Tham Gia Cộng Đồng Tại

???? Nguồn Tin tại: https://khoalichsu.edu.vn/

???? Xem Thêm Chủ Đề Liên Quan tại : https://khoalichsu.edu.vn/hoi-dap/


Loading

Related Posts

About The Author