Bài viết Quẻ Ly thuộc Toppic về Phong Thủy thời gian
này đang được rất nhiều bạn quan tâm đúng không nào !! Hôm nay, Hãy
cùng https://khoalichsu.edu.vn/hoi-dap/
tìm hiểu Quẻ Ly trong bài viết hôm nay nhé ! Các bạn đang xem nội
dung : “Quẻ Ly”
Đánh giá về Quẻ Ly
Ly: lợi trinh, hanh; súc tẫn ngưu
cát.
Quẻ Ly tượng trưng cho sự phụ bám: lợi về
sự giữ vững chính bền, hanh thông; nuôi trâu cái thì được tốt
lành.
Chú thích: Thích
văn viết: “Ly, là lệ thuộc, bám víu lẫn nhéu, là sáng, là quẻ
thuần thứ tám, tương trưng cho mặt trời, tượng trưng cho lửa”. Lợi
trinh, hanh – câu này có nghĩa: sự vật khi bị phụ thuộc, thì có lợi
về sự giữ chính, sau sẽ thông; chủ quẻ Ly là hào âm mềm, cho nên
lời hào hàm nghĩa ‘lấy mềm làm chính’. Vương Bật nói: “Quẻ Ly, lấy
mềm làm chính, cho nên tất phải chính bền, rồi sau mới hanh thông,
cho nên nói ‘lợi trinh, hanh’ vậy”. Súc tẫn ngưu cát – Câu này nêu
rõ ‘phụ bám’ thì nên giữ sự mềm thuận, mới có khả năng được cát,
cho nên ví với việc ‘nuôi trâu cái’. Vương Bật nói: “Mềm ở bên
trong mà ‘dẫm’ chính giữa, là điều tốt của giống cái; ngoài mạnh mà
trong thuận, là chỗ tốt của trâu. Ở thể của Ly là lấy mềm thuận làm
chủ, cho nên không thể nuôi loài cứng, mạnh được, ‘cát’ là chỗ nuôi
trâu cái vậy”.
Lý Đỉnh Tộ dẫn Tuân Sảng viết: “Âm lệ
thuộc dương, lệ thuộc lẫn nhéu vậy, cũng có nghĩa là biệt li, tách
âm và dương vậy. Ly có nghĩa là lửa, do mộc mà có, tức là phải lệ
thuộc mộc vậy. Nhưng khi đã cháy xong, thì khói bay lên trời, tro
than xuống đất, đó là chuyện chia cách âm dương vậy”. Bạch thư
Chu dịch chép là ‘la’, có nghĩa là ‘gặp nạn’ (ly nạn tao họa).
‘La’ hay ‘Ly’ đều có nghĩa gặp nạn.
Trong hào từ Cửu Tam, nói về hình tượng
mặt trời khi nghiêng về phía Tây, mặt trời bản chất có dư ánh sáng,
nhưng nay rơi vào cảnh hôn ám vô quang, tức là mặt trời đã gặp nạn,
cũng như hiện tượng Nhật thực, gây nên tình trạng u ám tối
tăm.
Người xưa soạn Dịch, đặt Càn Khôn Khảm Ly
ở thượng Kinh; Càn Khôn thì thuần âm dương, Khảm Ly thì ở trong âm
dương; còn như Chấn Tốn Cấn Đoài thì ở lệch bên âm dương. Thiên địa
là gốc của tạo hóa, Khảm tàng dương của trời, trong chịu sáng làm
mặt Trăng; Ly bám vào âm của đất, trong có sáng làm mặt Trời. Khảm
làm mặt trăng chủ về đêm, Ly làm mặt trời chủ về ngày. Sáng, trưa,
chiều, tối, đêm, ngày, mưa. nắng, đó là sự hoạt động của ngày đêm –
đó là huyền diệu của tạo hóa. Muôn vật đều có chỗ phụ bám dựa vào
để mà có hình, có hình ắt có phụ bám. Ở người là chỗ thân tình phụ
bám dựa vào, người ta đã bám vào đâu, lợi ở chỗ chính, có chính mới
được hanh thông. Nói ‘nuôi trâu cái’ là nói hàm nghĩa nuôi dưỡng
lấy ‘đức thuận’, người có đức thuận là do sự nuôi dưỡng mà
nên.
Chu Hy nói: “Quẻ Khảm nói trong thực
ngoài hư, thì biết Ly trong hư ngoài thực. Ở quẻ Ly nói thể âm mà
thời dương, thì biết Khảm thể dương mà dụng âm, coi ở hào Năm thì
biết. Vả chăng, sự phụ bám thường kéo theo chỗ bất chính. Bám vào
mà chính thì hanh. Sao lại lấy nuôi trâu cái làm tốt? Vì quẻ Khảm
thì sáng ở trong, lấy cương kiên mà đi ra ngoài; quẻ Ly thì sáng ở
ngoài, nên nhu thuận để nuôi dưỡng ở trong. Tính thủy thì thấm
xuống, càng xuống càng hãm, cho nên lấy sự đi làm khen. Lửa thì
tính bốc lên, càng lên thì càng mất nóng, cho nên lấy nuôi làm
tốt”.
Thoán viết: Ly, lệ dã; nhật nguyệt lệ hồ
thiên, bách cốc thảo mộc lệ hồ thổ; Trùng minh dĩ lệ hồ chính; nãi
hóa thành thiên hạ; nhu lệ hồ trung chính, cố hanh, thị dĩ súc tẫn
ngưu cát dã.
Thoán truyện nói: Ly, có nghĩa là phụ
bám, ví như mặt Trời mặt Trăng phụ bám vào Trời; trăm giống lúa
thóc, cây cỏ phụ bám vào đất. Hai lần sáng phụ bám vào chính đạo,
từ đó hình thành sự giáo hóa, đẩy nhanh sự thịnh vượng trong thiên
hạ; mềm thuận bám vào chỗ trung chính, Vì vậy hanh thông, do đó
nuôi trâu cái thì được tốt lành.
Chú thích: trùng
minh, chỉ thể trên và thể dưới đều là quái Ly, tức là ‘hai’ sáng
trồng lên nhau, câu này biểu thị hàm nghĩa nếu ‘hai sáng’ khi phụ
thuộc vào chính đạo, thì có khả năng ‘hóa thành thiên hạ’. Khổng
Dĩnh Đạt giảng: “Trùng minh, có nghĩa là trên dưới đều sáng”, Vương
Bật giảng: “Ly là sáng, mọi nơi đều đặn được sáng”; lệ hồ chính, có
nghĩa hai hào âm ở trong quẻ, đã có đức của ‘hai sáng’, lại bám vào
chính đạo, cho nên ‘hóa thành thiên hạ’; nhu, chỉ hào Hai và hào
Năm mềm, thuận, ở ngôi giữa, nằm ở chỗ chính. Vương Bật nói: “Mềm,
ở nơi trung chính, do đó được hanh thông; ‘cát’ của sự mềm thông
đến nuôi trâu cái là bậc tốt, chứ không thể nuôi các vật cứng mạnh
quá được”. Khổng Dĩnh Đạt nói: “Sự mềm của hào Năm, Hào hai đều đặn
bám vào giữa, giữa thì không thiên lệch, cho nên nói ‘trung chính’;
Tuy có hào Năm, là âm ở ngôi dương vốn mất chính về âm dương, nhưng
là chính về sự lý, cho nên chung quy vẫn là ‘phụ bám vào chính’
vậy”.
Vật mà phụ bám vào thì có hình, hình của
lửa thì không thường. Con người phát sinh được Thủy làm ‘tinh’,
được Hỏa làm ‘thần’, ‘tinh’ và ‘thần’ hợp lại khí tụ mà thành có
hình. ‘Tinh’ làm nên hình, ‘thần’ phụ bám vào hình, khí tan thì
‘thần’ trở về chỗ không. Trời vô cùng lớn, mặt Trời và mặt Trăng
phụ bám vào Trời, thóc lúa cỏ cây phụ bám vào đất. Hào Năm là ngôi
trời, cho nên thể quẻ Ly ở trên có tượng ‘nhật nguyệt lệ hồ thiên’;
hào Hai là ngôi đất, cho nên thể quẻ Ly ở dưới có tượng ‘bách cốc
thảo mộc lệ hồ thổ’.
‘Trùng minh’, theo nghĩa quái tài mà nói,
vua tôi đều phụ bám vào đức sáng, mà ở được nơi trung chính, có khả
năng hóa thiên hạ thành thời văn minh. Học biết chữ “thời” thì khảo
chứng về Dịch vậy.
Tượng viết: Minh lưỡng tác, ly; đại nhân
dĩ kế minh chiếu vu tứ phương.
Tượng truyện nói: Ánh sáng kế tiếp nhéu
(rọi bám vào không trung) nối tiếp nhau vươn lên, tượng trưng cho
sự “phụ bám”; bậc đại nhân do vậy liên tiếp không ngừng chiếu rọi
ánh sáng tới khắp bốn phương.
Chú thích: lưỡng như
nói liên tiếp, nối tiếp; ly theo nghĩa ‘treo giữa trời cao’; kế
minh Quách Dương nói cũng đồng nghĩa với ‘minh lưỡng tác’ và giảng
là: ‘mặt trời mặt trăng theo nhau mà tỏa sáng’. Khổng Dĩnh Đạt nói:
“Ly là mặt trời, mặt trời là sáng. Nay có hai thể trên và dưới, cho
nên nói ‘minh lưỡng tác, ly’ vậy”; và ông giảng: “ánh sáng kế tiếp
nhau sẽ chiếu ra khắp được bốn phương; nếu sáng không liên tục thì
chiếu không được lâu”.
Khổng Dĩnh Đạt nêu rằng: “Tám quẻ thuần
luận bàn về tượng không giống nhéu; mỗi quẻ đều từ thể của quẻ,
nghĩa của việc, lời văn diễn tả mà bàn. Quẻ Càn quẻ Khôn, bất kể là
thể trên thể dưới, đều đặn trực tiếp nói một cách tổng quát là
thiên hành kiện, địa thế khôn; bởi trời đất lớn nên gọi chung cả
hai thể trên và dưới vậy. Sấm thì liên tục, nước thì tuôn chảy
không ngừng, nghĩa đều đặn lấy liên tục theo nhau, cho nên quẻ Chấn
nói Chấn lôi, quẻ Khảm nói tấn chí. Gió là vật thể theo nhau lay
động, cho nên nói tùy phong, tốn. Núi, đầm là hai thể khác nhau,
không phải là hai vật nhập được với nhéu, cho nên nói kiêm sơn,
cấn, lệ trạch; đoài, đó là vật nào đi theo đường ấy. Nay thể ‘sáng’
trước sau đều đặn chiếu cả, cho nên nói minh lưỡng tác, ly, là tích
tụ hai lần sáng, Vì vậy viết là ‘ly’, nếu một ‘sáng’ tạm bị đứt thì
‘ly’ không lâu được. Do vậy, tất phải làm cho hai sáng trước sau kế
tiếp, thì mới tạo nên vẻ đẹp của quẻ Ly”. Trùng minh là trên
dưới đều đặn sáng; kế minh là trước sau đời đời nối sáng; Trùng
minh là tượng vua tôi, minh lưỡng là chỉ tượng vua.
Sơ Cửu, lý thác nhiên, kính nhi, vô
cữu.
Hào Chín Đầu, làm việc cẩn trọng không
cẩu thả, giữ thái độ cung kính, cẩn thận thì tất không cữu
hại.
Chú thích: thác nhiên
là cẩn trọng, từ tốn; Vương Bật chú “Thác nhiên, vẻ mặt kính cẩn
thận trọng”; Thượng Bỉnh Hòa chú “Thác nhiên, có ý nghiêm túc,
không cẩu thả”; Từ Tử Hùng chú “Thác nhiên, là lộn xộn, tạp
loạn”.
Hào Đầu dương cứng, ở ngôi dưới, ở vào
thời hành động phải ‘phụ thuộc’, làm việc trịnh trọng không cẩu
thả, cung kính cẩn thận, cho nên được không lỗi. Vương Bật nói: “Ở
ngôi đầu quẻ Ly, sẽ tiến lên trong sự hưng thịnh, cho nên khi ‘dẫm’
phải thận trọng, cần phải cung kính, sẽ tránh được lỗi vậy”.
Hào Đầu ở dưới thì không có ngôi, tự mình
phải sáng suốt về sự tiến thoái, đây là đạo để ‘bám vào’; dương
cương cư dương vị, có chí bám vào trên, chí đã động mà thiếu kính
cẩn thì dẫn tới vọng động, đó là sự bám vào chưa được ‘sáng’. Hồ
Song Hồ nói: “Thác nhiên có ý nói sự vật rối loạn, nếu biết kính
cẩn thì lòng có chủ định, sự thủ ứng không loạn, vì là hào Đầu sự
biết còn nông cạn chưa được sáng suốt, nên dễ dẫm càn”.
Tượng viết: “Lý thác chi kính”, dĩ tị cữu
dã.
Tượng truyện nói: “Làm việc cẩn trọng,
giữ thái độ cung kính”, nói lên ý hào Đầu có như vậy mới tránh được
tội lỗi.
Thuyết minh: ‘phụ
bám’ quý ở chỗ ‘mềm chính’, hào Đầu dương cứng, vốn có ‘lỗi’, nhưng
ở vị dưới, khiêm, mềm, kính, thận, Vì vậy tránh được lỗi. Lý thác
theo nghĩa là muốn động, sợ rằng tà chính thiện ác, còn phân vân
tạp loạn, chưa biết là nên theo đường nào, cái một cách tự nhiên
đến mà chót ‘xéo’ bậy, nếu biết kính cẩn thì có khả năng vẫn tránh
được lỗi. Hồ Ái nói: “Ở ngôi đầu quẻ Ly, như mặt trời mới mọc. Mới
vào việc phải luôn thận trọng, kính sợ để tiến đức sửa nghiệp, như
vậy sẽ tránh được lỗi”.
Xác định nguyên nhân “lý thác nhiên” hào
Đầu quẻ Ly: Căn cứ vào nguyên tắc xác định quẻ hỗ phản phục – khi
hào biến tới cùng cực
-Quẻ Ly [101-101], hào Đầu được xét, biến
hào Đầu dương thành âm, được quẻ Hỏa Sơn Lữ [101-100]
-Xác định quẻ phục cho quẻ Lữ – được quẻ
Thủy Trạch Tiết [010-011]
-Theo nguyên tắc hỗ phản phục: hào Đầu
quẻ Lý sẽ đối ứng với hào Trên quẻ Tiết. Cặp hào 1 – 6.
-Lời hào Sáu Trên quẻ Tiết: khổ tiết;
trinh hung, hối vong Sự tiết chế quá mức mà đạo ‘tiết chế’ cùng
cực; sự ‘khổ tâm’ của việc hành ‘tiết’, tới mức khô kiệt, vắt kiệt,
làm cho nó dễ bị hóa mất hoàn toàn. Đây là hình tượng: tình trạng
gỗ tươi chuyển dần sang tình trạng gỗ khô kiệt để biến thành lửa.
Dân gian có câu “gầy như que củi”.
-Ta nhận thức được tại sao người xưa soạn
Dịch, lại có ghi thêm chữ nhiên của hào Đầu quẻ Ly, thật ít thấy có
sự chú giải này !
-Cùng cực của khổ tiết, phản lại lý thác
nhiên.
Lục Nhị, hoàng ly, nguyên cát.
Háo Sáu Hai, giữ được sắc hoàng trung
chính phụ bám vào vật, cực tốt.
Chú thích: hoàng, sắc
mầu ở giữa của ngũ sắc, tượng trưng cho đạo ‘trung’; Thuyết văn
giải tự giảng: “ly, là một loài chim vàng anh mầu vàng, khi
hót thì con tằm nảy sinh”; Cao Hanh cho rằng ly có nghĩa là khí mây
giống như hình con rồng, tức là một loại cầu vồng; Trương Lập Văn
giảng: “hoàng ly, là thần núi hình thú”. Ở đây mầu vàng ví với hào
Hai ở ngôi giữa, có thể lấy đạo mềm thuận, trung chính bám vào vật,
cho nên được ‘nguyên cát’. Hai câu hoàng ly, nguyên cát có nghĩa
“Mềm thuận bám vào chỗ trung chính, do đó hanh thông”. Vương Bật
nói: “Ở ngôi giữa, được ngôi, lấy chất mềm ở ngôi mềm ‘dẫm’ vào sự
thịnh của văn minh mà được ngôi giữa, cho nên nói ‘hoàng ly, nguyên
cát’ vậy”. Hồ Vân Phong nói: “Nhị ở Ly lấy mầu vàng mà nói, thấy
Nhị và Ngũ đều đặn từ Khôn lại, mà Ngũ chẳng lấy ‘hoàng ly’ để nói,
là vì năm hào ở Khôn là đạo bầy tôi, nên ở Ngũ nói ‘hoàng thường
nguyên cát’; ở Ly thì Ngũ là vua còn Nhị là bầy tôi, cho nên Nhị
nói ‘hoàng ly nguyên cát’; vả lại tính của Ly là bốc lên, cái trung
của thượng chẳng bằng cái trung của hạ”.
Tượng viết: “Hoàng ly, nguyên cát”, đắc
trung đạo dã.
Tượng truyện nói: “Giữ được sắc vàng
trung chính phụ bám vào vật, cực tốt”, nói lên ý hào Hai đạo hợp
giữa không lệch.
Thuyết minh: ở quẻ Ly
chẳng nói ‘chính’ mà lấy ‘trung’ làm trọng, cho nên lời tượng nói
‘trung đạo’, được ‘trung’ mà lại có ‘chính’ ở trong ‘trung’, thì
văn minh sẽ thành. Thời dụng của quẻ Khảm, hào Hai và hào Năm đều
đặn được ‘trung’, hào Năm thì đáng ngôi còn hào Hai thì chẳng đáng
ngôi, cho nên thắng ở hào Năm; Thời dụng của quẻ Ly, thì hào Hai và
hào Năm cũng ở ‘trung’, hào Hai đáng ngôi còn hào Năm không đáng
ngôi, cho nên thắng ở hào Hai. Ở quẻ Khảm hào Năm được ‘trung’ mà
‘trung’ ấy chưa lớn, cho nên Đại tượng mới nói: “Thủy tấn chí”; còn
ở quẻ Ly nói: ‘Minh lưỡng tác’, Đại nhân chí muốn hướng về đạo
‘trung’ của hào Hai.
Lưu Mục nói: “Ly là tượng lửa, ngọn lửa
mạnh mà dễ thành tro, đó là hào Chín Bốn vậy; quá thịnh thì có hung
vì suy kiệt, đó là hào Chín Ba; duy có hào Hai được giữa, nó là hào
được nguyên cát của quẻ Ly”. Thuyết này so sánh về các tượng của
hào Hai, hào Ba, hào bốn thật đáng chấp nhận.
Cửu Tam, nhật trắc chi ly, bất cổ phẫu
nhi ca, tác đại điệt chi ta, hung.
Hào Chín Ba, mặt trời sắp lặn, ngả dần
bám về phía trời tây, lúc này nếu không tự gõ vò, vui vẻ ca hát,
tất sẽ than thân già ốm yếu, có hung hiểm.
Chú thích: nhật trắc
có nghĩa là ‘mặt trời sắp lặn’; Cao Hanh nói: “Ly, là thú của thần
núi, xuất hiện vào lúc mặt trời lặn”; phẫu, là đồ bằng sành, có thể
sử dụng để gõ, khác với thứ sử dụng để chứa (hào Sơ quẻ Tỷ),
Thuyết văn nói người đời Tần gõ vào đó để làm nhịp mà hát.
Từ Tử Hùng giảng: “cổ phẫu nhi ca, trong thời cổ, khi thấy vào lúc
mặt trời xế chiều, trên bầu trời xuất hiện cầu vồng, thì xem đó là
điềm xấu, cho nên phải ca hát gõ trống để tống tiễn”, tống khứ điềm
hung, cách thức cầu giải hung; điệt, Mã Dung giảng là ‘bảy mươi
tuổi’; Vương Túc giảng ‘Tám mười tuổi gọi là điệt’, “Đại điệt” như
nói ‘người rất già’.
Những câu này lấy mặt Trời ngả dần về
phía Tây để ví, để làm tượng, ý nói lên hào Ba ở cuối thể dưới quẻ
Ly, dương cùng cực sẽ suy, không thể bám dài lâu vào vật được nữa;
vào thời vị trí này nếu không ‘gõ mõ’ hát cho vui, mà gắng gượng
tiến thủ, thì đến lúc ‘than thân già nua’, tất có hung hiểm. Vương
Bật giảng: “Ở ngôi cùng cực của quẻ Ly dưới, biết rằng sẽ mai một,
cho nên nói ‘nhật trắc chi ly’. Biết là sẽ đến lúc cùng, nếu không
phó thác việc cho người, dưỡng chí vô vị, thì sẽ đến lúc than thân
già nua, hung vậy”.
Xét quẻ bát thuần theo nghĩa từ hai thể.
Càn trong ngoài đều đặn kiện; Khôn trên dưới đều thuận; Chấn uy
Chấn kế tiếp; Tốn trên dưới thuận theo; Khảm trùng hiểm dồn tập; Ly
hai sáng kế tiếp mà chiếu; Cấn trong ngoài đều chỉ (dừng); Đoài
người và ta đều đặn đẹp; Nhưng riêng đối với quẻ Ly, thì ứng với
người là nghĩa rất lớn, người thì có trước có sau, mà thời thì có
thay đổi như ánh sáng mặt trời. Hào Ba ở vị cùng hạ thể, ví như ánh
sáng trước hầu hết đang dần tàn lụi, ánh sáng sau là thời đương kế
tiếp. Theo lý mà nói, thịnh ắt có suy, trước ắt có sau, là đạo
thường hằng vậy. Người đạt thời thì lấy thuận lý làm vui, kẻ không
đạt thời thì lấy tuổi tác quá già làm lo sợ, đó là đạo sinh tử vậy.
Cho nên, Chu Hy nói: “Sinh tử là lẽ thường, nếu chẳng yên ở lẽ
thường, lấy thường để làm vui, thì phải than thở vậy. Có ngày ắt có
đêm. Người ta chẳng biết lẽ thường như vậy, đến lâm thời, tự lấy
làm chẳng yên”.
Hào Ba đang xét là ở thời chiều tà, sự
hôn ám trỗi dậy đang nổi lên tranh chấp với mặt trời đang ở vị yếu
thế; nếu như không tích cực tìm cách lưu giữ sự sáng đã qua và đón
nhận ánh sáng kế tiếp, thì bóng tối hôn ám sẽ tràn ngập, dẫn tới vị
thế chờ đợi sự suy bại đến.
Tượng viết: “Nhật trắc chi ly”, hà khả
cữu dã.
Tượng truyện nói: “Mặt trời sắp lặn ngả
dần bám về phía trời tây”, tình trạng này thì làm sao mà giữ được
cho lâu dài !
Thuyết minh: Tự vấn
rằng: ánh sáng mặt trời có được lâu chăng ? ánh sáng đã như vậy,
thì phải cầu người kế tiếp thay mình vào việc, yên thường ở thuận,
lui ẩn giữ mình là giải pháp hữu hiệu, thì có gì làm hung. Tuân
Sảng nói: “Hào Đầu là mặt trời mọc, hào Hai là mặt trời đứng bóng,
hào Ba là mặt trời sắp lặn”, lời này biểu thị rõ ràng tượng của ba
hào thể dưới quẻ Ly, lời hào khẳng định sự răn bằng chữ ‘ta’, thực
muốn nói rõ về nghĩa: sự vật nào cũng có lúc “ngày tối đường cùng”,
nhằm khơi dậy sự kiềm chế trong ta, không thể tiến quá mức mà chẳng
dừng, vì biết rằng sự đe dọa đang xuất hiện ở phía trước.
Cửu Tứ, đột như kì lai như, phần như, tử
như, khí như.
Hào Chín Bốn, đột nhiên ánh sáng đỏ rực
xuất hiện, như ngọn lửa mạnh đang thiêu đốt, nhưng trong khoảnh
khắc sẽ tiêu tán, tận diệt, không còn lại gì.
Chú thích: đột như,
là ‘tai nạn đột nhiên giáng xuống’; phần như là đốt sạch; tử như là
giết sạch; khí như là đem vứt bỏ. Câu này có thường xuyên thuyết
chú giải khác nhéu. Trương Lập Văn dịch: “Kẻ thù bất ngờ tấn công,
đốt nhà, phá hoại, giết hết người, không còn một thứ gì”. Hào Bốn ở
thể trên quẻ Ly, là nghĩa mới đầu ở bên ngoài, ở trên, theo nghĩa
nối tiếp cái sáng, cũng theo nghĩa kế thừa.
Hào Bốn lấy tượng ráng trời khi mặt trời
mọc để ví, nói lên hào Bốn ở vào khoảng giữa hai thể trên dưới của
quẻ Ly, muốn nhénh chóng đi lên ‘bám’ vào hào Năm, nhưng lấy chất
dương ở ngôi âm nên mất chính, ‘dục tốc bất đạt’ tương đương mặt
trời mới mọc ở phía đông đột nhiên vọt lên cao, có thế của ‘lửa rực
đốt cháy’; nhưng sự cuối cùng của ánh sáng đã lụi tàn không thể
‘bám’ nối tiếp ở trời cao, mà bị tiêu tán không còn gì, rơi vào kết
cục ‘sẽ chết, bị mọi người bỏ’. Vương Bật nói: “Ở vào hoàn cảnh
đường sáng bắt đầu thay đổi ngay, tối mà trời bắt đầu sáng, mất đi
mà bắt đầu xuất hiện, cho nên nói ‘đột như kì lai như’. Cái sáng
bắt đầu tiến, cái nóng bắt đầu bốc, cho nên nói ‘phần như’; tiến
sát tới bậc tôn quý, ‘dẫm’ không phải ngôi, muôn tiến mạnh để bức
người trên, mệnh nó tất không có chung cục, cho nên nói ‘tử như’;
phạm vào nghĩa ‘ly’, không ứng không đội, mọi người đều không tha,
cho nên nói ‘khí như’ vậy”.
Hồ Vân Phong nói: “Quẻ Ly lấy hào Hai và
hào Năm làm chủ, nên nói trước sáng sau sáng. Hào Ba gần hào Hai là
cái sáng trước hầu hết, hào Bốn gần hào Năm là cái sáng sau sắp
nối. Đột như là hào Bốn bức bách hào Năm. Quẻ Khảm hào Ba và quẻ Ly
hào Bốn đều là trên dưới giao nhéu, hai quẻ như vậy là có thâm ý;
Tính Khảm hạ xuống mà hào Ba ở trên hạ quái, nên nói là ‘đến’,đến mà ở thể dưới. Tính Ly bốc lên, lên mà
ở trên, hào Bốn ở dưới thượng quái, nên nói ‘kì lai’, đến mà ở thể trên. Nước chảy xuống vào đến hố sâu mới
thôi, lửa cháy bốc lên, đến cháy, đến chết, đến bỏ mới thôi. Quẻ
Khảm hào Ba có tượng là gối, hào Ba gối vào hiểm, mà hào Bốn lại
gối vào hào Ba, nên hào Ba càng đi sâu vào hiểm. Quẻ Ly hào Bốn có
tượng ‘đột nhiên’, mà hào Bốn đột như đến bức bách hào Năm, thì hào
Hai cũng đột như lên bức bách hào Bốn, nên hào Bốn càng thêm bị
cháy”.
Tượng viết: “Đột như kì lai như”, vô sở
dung dã.
Tượng truyện nói: “Đột nhiên ánh sáng đỏ
rực xuất hiện”, nói lên ý cái hư thế của hào Bốn, tất sẽ làm nó
không nơi ‘phụ bám’, chứa chấp.
Thuyết minh: sự xuất
hiện của ráng sớm, đột nhiên đến lại mất ngay, chỉ có khả năng bất
chợt lóe sáng ở chân trời phía Đông, không có cách nào để bám vào
bầu trời; lời hào lấy hiện tượng này để ví với tình trạng của hào
Bốn nóng lòng muốn phụ bám vào hào Năm, cuối cùng khó toại nguyện,
hình tượng này rất sát đúng. Chiết trung cho rằng hào Bốn
“không thể lấy sự thuận đức để nuôi cái sáng của nó, không phải là
người ta không bao dung nó, mà là không có nơi nào để bao dung”.
Trên thì lấn vua là chẳng thuận theo, đây là tượng ‘vô sở dung’
vậy.
Lục Ngũ, xuất thế đà nhược, thích ta
nhược, cát.
Hào Sáu Năm, nước mắt chảy ròng ròng,
ngậm ngùi than thở, (ở nơi tôn quý, được giúp dập, về cuối sẽ) tốt
lành.
Chú thích: thế có
nghĩa là ‘nước mắt’ (nhãn lệ); đà có nghĩa là ‘nước mắt rơi như
mưa’; thích có nghĩa là ‘lo lắng ưu sầu, buồn thương’. Những câu
này có nghĩa chỉ về hào Năm là âm ở ngôi dương, bị thế của hào Bốn
gây ra áp lực, bức bách, khống chế, dẫn tới mà buồn thương khóc
lóc; nhưng do ‘bám’ chắc vào nơi tôn quý, cuối cùng được mọi người
giúp, cho nên trước thì than khóc sau thì cát. Vương Bật nói: “Dẫm
không phải ngôi mình, thì không đảm đương nổi nhiệm vụ của ngôi
mình. Lấy chất mềm cưỡi cứng, thì không thể kiềm chế được kẻ dưới.
Hào Bốn đứng đầu sự nghịch. Kẻ dưới cứng mà tiến lên, sau sẽ hại
mình, quá buồn thương đến mức than thở khóc lóc. tuy nhiên, đã phụ
bám ở nơi tôn quý, mọi người đều đặn giúp dập, cho nên tuy ‘đà’,
‘ta’ mà được cát”.
Âm nhu mà giữ được ‘trung’, thì có khả
năng gọi được là thuận; lại cưỡi lên trên kẻ cương nghịch mà dưới
không có ứng trợ, cô độc phụ bám vào địa phận nơi mình ở. Dương gặp
âm thì thông, hào Bốn đi lên gặp hào Năm vậy. Hồ Vân Phong nói:
“Trong Khảm có Ly là tượng hư minh từ cửa sổ; hào Ba là bậc đại lão
than lo về sự chết sống, là việc không đáng lo mà lo; Hào Năm biết
lo sợ như vậy, là việc đáng lo, nên được cát”.
Lý Quá cho rằng hào Năm có tượng vua mới
‘kế đời đổi vị’. Vương Phu Chi nói: “Sáng sau kế tiếp sáng trước là
hưng thịnh, lấy đạo mềm ở ngôi tôn quý, Cao Tông buồn rầu ba năm
không nói, Thành Vương lên nắm chính sự mà ưu tư thống khổ”. Sử
tích về Ân Cao Tông và Chu Thành Vương cũng khá tương hợp với ý
nghĩa tượng trưng của hào Năm.
Trương Lập Văn dịch hào này như sau: “Gào
khóc lệ rơi, đau xót than vãn, hết thời bĩ đã đến thời thái, kết
quả may mắn”. có thể Trương Thiện Văn căn cứ vào quẻ “hỗ tượng”
[1-2-3-4] , quẻ “ước tượng” [3-4-5-6] và quẻ “trung hào”
[2-3-4-5] lập ý nghĩa tượng trưng cho hào Năm. Thiên-Nhân-Địa
= Tiết-Đại quá-Gia nhân.
Tượng viết: “Lục Ngũ chi cát”, ly vương
công dã.
Tượng truyện nói: “Sự tốt lành của hào
Năm”, nói lên ý được phụ bám vào nơi tôn quý của đấng vương
công.
Thuyết minh: Khổng
Dĩnh Đạt nêu rằng “Hào Năm ở ngôi vua, mà nói chữ ‘công’, đây là
nói liền chữ ‘vương’ với chữ ‘công’, cốt cho tiện lời văn, để vần
được hợp nhau”, như vậy cho ‘vương công’ là từ chệch nghĩa, ý chỉ
‘quân vương’. Nhưng Thái Thanh cho rằng “Ngẫm về câu ‘ly vương công
dã’, thì thấy hào Năm trong các quẻ đều đặn nói về ngôi tôn quý,
không cứ đều đặn phải nói về ‘thiên vương’; Phàm các vua chư hầu
làm vua nước mình, là đủ để nói là ở ngôi hào Năm”. Hai thuyết này
đều đặn có khả năng tham khảo, nên theo với cả ‘lý thuyết nhóm’.
Cần nhất là giữ được thế ở trên, xét sự lý sáng suốt, biết lo sợ và
học cách biết chấp nhận.
Thượng Cửu, vương dụng xuất chinh, hữu
gia chiết thủ, hoạch phỉ kì xú, vô cữu.
Hào Chín Trên, vua xuất quân chinh phạt,
lập được công lớn, chém đầu quân địch, bắt những kẻ dị kỉ không
chịu lệ thuộc, không có lỗi.
Chú thích: hữu gia Từ
Tử Hùng giải thích là ‘tên nước thời Chu Sơ; Khổng Dĩnh Đạt giảng
‘gia, là làm cho tốt đẹp hơn’; Trương Lập Văn giảng là ‘chuyện vui
mừng’; chiết thủ là chặt đầu; xú theo Lý Đỉnh Tộ dẫn Ngu Phiên
giảng là ‘loại’ có nghĩa là ‘bắt được tù binh’; Hoàng Kỳ Thọ giảng
‘phỉ kì xú, là dị kỉ, không phải cùng loại với mình, không chịu
phục tùng’.
Vương dụng xuất trinh – câu này có nghĩa
hào Trên lấy chất dương ở ngôi cùng cực quẻ Ly, đại thành đạo ‘phụ
bám’, mọi người đều đặn phải phụ bám; nhưng có những kẻ không chịu
lệ thuộc, thì phải đem quân đi hỏi tội. Khổng Dĩnh Đạt nói: “Ở ngôi
cùng cực quẻ Ly, đạo ‘ly’ đã thành, mọi vật đều đặn phải phụ bám,
cần trừ khử những kẻ phi loài để trừ hại cho dân. Xuất chinh để trừ
kẻ có tội, việc tất thắng lợi, cho nên đã lập công lớn, chặt đầu kẻ
có tội, bắt những kẻ bất chính, do vậy được không lỗi”. Trình Di
giải thích chữ ‘thủ’ là ‘đầu sỏ’ (khôi thủ), cho câu ‘hoạch phi kì
xú’ là ‘hoạch phi kì thủ’, cũng là một thuyết của tiền nhân.
Mục đích của việc thanh trừng, không phải
là áp đặt sự trừng phạt một cách mù quáng, mà là để tạo ra kỷ
cương. Tội lỗi phải được chữa trị tận gốc. Với bản thân, điều hấp
dẫn nhất là loại bỏ những thói quen không tốt và dung thứ cho những
tập tính vô hại. Vì sự khổ hạnh quá nghiêm khắc, giống như các bản
án quá nặng, sẽ thất bại không đạt được mục đích nào của nó.
Tượng viết: “Vương dụng xuất trinh”, dĩ
chính bang dã.
Tượng truyện nói: “Vua xuất quân chinh
phạt”, nói lên ý hào trên làm như vậy là để cho đất nước yên ổn,
trị vì được thiên hạ.
Thuyết minh: hào Trên
lấy đức cứng sáng ở ngôi cao cùng cực quẻ Ly; kẻ dưới phụ bám tất
đông, kẻ di dịch bội nghịch tất ít; cho nên khi chinh phạt những kẻ
‘dị kỉ’, thế tất sẽ không lỗi. Câu ‘hóa thành thiên hạ’ và câu ‘dĩ
kế minh chiếu vu tứ phương’ của Đại tượng, đã thể hiện được toàn bộ
ý của hào này. Cực sáng thì không chỗ nhỏ mọn nào mà chẳng soi đến,
cực đoan thì không có lòng khoan dung, sợ có lỗi về sự tàn bạo. Hào
đầu và hào cuối quẻ Ly đều đặn là hào dương, hào đầu thì sáng ở
trong, nên biết kính mà tránh được lỗi; hào cuối thì cương ở ngoài,
nên lấy chinh phạt để làm chính việc của mình.
LỜI BÀN
Tả truyện năm Hy Công thứ 14 ghi
lời Quách Xạ nói: “Da mà không có, thì lông làm sao mọc lan ra
được”, nói lên ý mọi vật bao giờ cũng phải phụ bám vào một vật nhất
định. Xét về mọi vật thể trong thiên nhiên, thì mặt trời phải dựa
vào không gian mà chiếu rộng khắp nơi, lửa phải dựa vào nguồn nhiên
liệu mới phát quang, thật rõ ràng ! Quẻ Ly biểu lộ được nghĩa của
nó, chính là do lấy lửa và mặt trời làm dụ tượng. Lời quẻ nói ‘nuôi
trâu cái’ thì được tốt lành, là muốn nhấn mạnh ý ở thời ‘phụ bám’,
tất phải nuôi và dưỡng sự ‘mềm thuận’, gắng đạt tới ‘chính’ và gìn
giữ sự ‘chính’, thì mới có thể hanh thông thoáng đạt.
Phân tích về tình trạng của sáu hào: hào
Hai và hào Năm, âm mềm ở tại ngôi giữa giữ chính đạo, coi sự ‘phụ
bám’ làm phương thuận tiện, lấy đà tiến để biến vẻ đẹp của sự ‘phụ
bám’ thành hữu công; hào Ba và hào Bốn đều đặn hung, đều là dương
cứng, không trung, không chính, hào thì trước mặt là sự cùng khốn
suy vi, hào thì ở hư thế ‘không chốn dung thân’, đều không thể toại
chí trong thời ‘phụ bám’; Với hào Đầu và hào Trên, thì hào Đầu ở
ngôi dưới, cung kính thận trọng, dần dần có thể phụ bám vào mọi
vật; hào Trên thì đạo ‘ly’ đã thành, mọi vật đều đặn phụ bám, mà cả
hai hào đều đặn được ‘vô cữu’.
So sánh hai quẻ đối cực Khảm Ly – nước
lửa với nhéu, ta thấy ý nghĩa cốt lõi tương phản giữa hai quẻ, đó
là: ‘hành hiểm’ thì nên lấy ‘cứng giữa’ làm chủ, ‘phụ bám’ thì nên
lấy ‘mềm thuận’ sao cho thích hợp.
Dụ ý tượng trưng của quẻ Ly cũng hết sức
rộng, nó lấy việc đời làm thuyết: bất kể địa vị của người ta cao
thấp ra sao, cũng đều phải phụ thuộc vào thời đại, vào xã hội đang
sống; còn thứ bậc khác nhéu giữa người với người, lại tồn tại trong
mối quan hệ phức tạp giữa phụ thuộc và bị phụ thuộc. Cơ cấu xã hội
loài người, chắc chắn phản ánh một kiểu tổ hợp đặc biệt.
Trình Di nói: “Trong khoảng trời đất,
không có sự vật nào mà không lệ thuộc, người mà lệ thuộc, nếu sự lệ
thuộc đó là chính, thì có khả năng hanh thông. Vua tôi, người trên
kẻ dưới, đều đặn có đức sáng, nếu như có được trung, giữ được
chính, thì có thể hình thành sự giáo hóa, đẩy nhanh sự thịnh vượng
trong thiên hạ, tạo thành tập tục văn minh”.
Các câu hỏi về quẻ ly là gì
Nếu có bắt kỳ câu hỏi thắc mắt nào vê quẻ ly là gì hãy cho chúng mình biết nhé, mõi thắt mắt hay góp ý của các bạn sẽ giúp mình cải thiện hơn trong các bài sau nhé <3 Bài viết quẻ ly là gì ! được mình và team xem xét cũng như tổng hợp từ nhiều nguồn. Nếu thấy bài viết quẻ ly là gì Cực hay ! Hay thì hãy ủng hộ team Like hoặc share. Nếu thấy bài viết quẻ ly là gì rât hay ! chưa hay, hoặc cần bổ sung. Bạn góp ý giúp mình nhé!!
Các Hình Ảnh Về quẻ ly là gì
Các hình ảnh về quẻ ly là gì đang được chúng mình Cập nhập. Nếu các bạn mong muốn đóng góp, Hãy gửi mail về hộp thư lienhe@domain.com. Nếu có bất kỳ đóng góp hay liên hệ. Hãy Mail ngay cho tụi mình nhé
Xem thêm báo cáo về quẻ ly là gì tại WikiPedia
Bạn nên tìm thêm nội dung chi tiết về quẻ ly là gì từ trang Wikipedia.◄ Tham Gia Cộng Đồng Tại???? Nguồn Tin tại: https://khoalichsu.edu.vn/
???? Xem Thêm Chủ Đề Liên Quan tại : https://khoalichsu.edu.vn/phong-thuy/
Các bài viết liên quan đến
E chào thầy.chào ace