Đánh giá về Chủ nghĩa biểu hiện trong điện ảnh Đức – một nhãn
quan mới về thế giới và nghệ thuật – Tạp chí Tia sáng
Xem nhanh
Những vật thông thường ẩn giấu mục đích bí mật mà không ai biết! Ngay cả biểu tượng cảm xúc... những biểu tượng nhỏ mà chúng ta gửi cho nhau để thể hiện cảm xúc thường được dùng và hiểu sai! Hãy cùng tìm hiểu ý nghĩa ban đầu của một số biểu tượng cảm xúc và đừng bao giờ gửi chúng khi chưa hiểu đầy đủ về chúng nhé. Thật thú vị khi một điều bình thường lại trở nên khác thường?!
#soisáng #biểutượngcảmxúc #mụcđíchẩn
Video được tạo bởi Soi Sáng.
Âm nhạc của Epidemic Sound https://www.epidemicsound.com/
Nguồn tài liệu có sẵn (ảnh, đoạn ghi hình,...)
https://www.depositphotos.com
https://www.shutterstock.com
https://www.eastnews.ru
Đăng ký Soi Sáng https://bit.ly/2TPVZhq
Chủ nghĩa biểu hiện (Expressionism) là một khuynh
hướng của nghệ thuật tạo hình, kiến trúc, văn học và điện ảnh hình
thành và phát triển ở Đức từ 1905 đến 1920, lan rộng ảnh hưởng
trong văn hóa một số nước khác ở châu Âu. phát sinh như là sự phản
ứng lại những khủng hoảng xã hội đầu thế kỷ XX (chiến tranh thế
giới 1914 – 1918), chủ nghĩa biểu hiện là tiếng nói của những con
người công khai không đồng ý chiến tranh và tình trạng vô hồn của
cuộc sống, chống lại sự áp chế của các cơ cấu xã hội đối với cá
nhân và sự xơ cứng của những nguyên tắc “cổ điển” về nghệ thuật.
Trong lĩnh vực điện ảnh, Chủ nghĩa biểu hiện đã đem lại một cách
thức tự sự vô cùng độc đáo và mới lạ, xóa bỏ ấn tượng về sự độc tôn
của “điện ảnh Hollywood cổ điển”, phong phú hóa cách nhìn và cách
thể hiện của các nghệ sĩ đối với hiện thực.
Sau khi Thế chiến thứ I kết
thúc, cảm giác thất vọng cùng nỗi hoang mang về một thế giới đang
đổ vỡ và lụi tàn dường như đã lan thấm sâu xa vào tâm hồn các nhà
văn, các họa sĩ, các nhà làm phim của nước Đức. Cùng thời vị trí
này, tình trạng khủng hoảng của cuộc sống kinh tế – xã hội, những
cấm đoán và định kiến của thị trường điện ảnh Mỹ tương đương châu
Âu, sự “lên ngôi” và bành trướng của điện ảnh kinh điển Hollywood…
càng khiến cho cánh cửa vốn hẹp với phim Đức lại ngày một hẹp hơn.
Giữa lúc sóng gió ấy, Decla – một Doanh nghiệp điện ảnh nhỏ (tồn
tại độc lập với công ty lớn của chính phủ – UFA) đã mạnh dạn đầu tư
làm một phim theo phong cách phi truyền thống – phong cách của Chủ
nghĩa biểu hiện (do hai tác giả trẻ Carl Mayer và Hans Janowitz
viết kịch bản và ba họa sĩ dàn dựng đồ họa). Thật bất ngờ, bộ phim
“phi Hollywood” ấy – The Cabinet of Dr. Caligari (1920) – với chi
phí làm phim không cao lại có được thành công vang dội ở Berlin,
rồi sau đó ở Mỹ, Pháp và các nước khác. Tiếng vang của Caligari
cùng với một vài bộ phim khác cùng phong cách đã cuốn các nhà làm
phim Đức vào một trào lưu rộng lớn mang tinh thần của Chủ
nghĩa biểu hiện. Lúc này, không chỉ các Doanh nghiệp nhỏ mà ngay cả
các tập đoàn lớn (như UFA) cũng đầu tư làm “phim biểu hiện”, vì
những phim này cạnh tranh được với các phim của Mỹ, Pháp… Những
phim khá nhất của Đức tại thời điểm đó đều được đánh giá là những
phim xuất sắc của thế giới: The Cabinet of Dr. Caligari (1920),
Nosferatu (1922), The Nibelungen (1923 – 1924), Tartuff (1925),
Metropolis (1927)… Vào giữa thập niên 20, với trào lưu mới mang màu
sắc riêng của dân tộc, điện ảnh Đức đã vươn đến một đỉnh cao trong
lịch sử phát triển của mình trên sự thống nhất hài hòa cả hai
phương diện: hiệu quả buôn bán và thành tựu nghệ
thuật. Một đặc điểm nổi bật của phong cách phim
biểu hiện Đức chính là tinh thần “phản cổ điển”, cùng lúc ấy, “phản
hiện thực chủ nghĩa”. Cái mới, tính sáng tạo của nó trước hết được
xây dựng trên sự phủ định quyết định những mô thức đã được quy phạm
hóa, giá trị hóa trước đó của phim ảnh Hollywood nói riêng và phim
kinh điển thế giới nói chung. Tự sự truyền thống (mà Citizen
Kane, Cassablanca, The Wizard of Oz… là những dẫn chứng tiêu
biểu) thực chất là cuộc kiếm tìm cái hữu lý và tính khả giải của
đời sống – nơi mọi biến cố, xung đột, khủng hoảng… được phát lộ ở
hồi đầu tiên thì bằng cách nào đó sẽ được giải quyết ở hồi cuối
cùng như là một hành trình khách quan và tất yếu. Nguyên tắc của
“tính liên tục cơ bản” và “tự sự theo tuyến tính” trở thành phong
cách tiêu chuẩn ở Hollywood vào thập niên 20.tuy
nhiên, lối kể chuyện đề cao tính khách quan và tính nhân quả đó
dường như đã bị phá vỡ “một cách ngoạn mục” bởi quan niệm và cách
làm phim của các tác giả theo phong cách biểu hiện chủ nghĩa. Họ
không những là tác giả của những cách tân cách thức đơn thuần, họ
còn là những người nỗ lực tìm ra một cách nhìn mới với cái hiện
thực mà lâu nay đã luôn chỉ được nhìn theo một cách duy
nhất… Trong bộ phim được coi là đầu tiên và tiêu
biểu cho trào lưu này, The cabinet of Dr. Caligari (Robert Wiene),
người đọc dường như bị “lạc lối” cùng “người kể chuyện” trong một
cánh rừng đầy bóng tối của ảo ảnh và ác mộng… Những cảnh quay cuối
cùng hé mở một sự thật “gây ra sốc” về người kể chuyện: thay vì là
“Chúa trời” hay “ông biết tuốt” như lệ thường, anh ta lại chính là
một kẻ điên, một người mất có khả năng kiểm soát chính mình chứ
chưa nói đến kiểm soát thực tại quanh mình. Điều này khiến cho toàn
bộ các tình tiết bí ẩn ly kỳ (về án mạng, về thủ phạm, về nạn nhân)
được dựng lên công phu trước đó biến thành sự giễu nhại với loại
phim trinh thám cổ điển: Cái được phơi bày không phải là sự thật mà
chỉ là nỗi hoài nghi về sự thật; tính nhân quả trở thành một “phạm
trù rỗng” nhường chỗ cho sự phi lí đến thắt lòng. Chính việc lựa
chọn điểm nhìn đặc biệt ấy đã chi phối mạnh mẽ đến nghệ thuật dựng
phim (editing) và dàn cảnh (mise-en-scene) mang đậm tính chất biểu
hiện chủ nghĩa: thế giới không còn là sự sắp xếp ngăn nắp và vừa
vặn của các kiến trúc – hình khối như những gì chúng ta vẫn hình
dung. Từng ngôi nhà, từng bức tường, mỗi hàng cây, mỗi cánh cửa…
đều đặn bị xô đẩy, méo lệch và thiếu cân đối một cách kỳ quặc bên
những sắc màu chói gắt đầy kích động của trang phục diễn viên.
ngoài ra, bằng lối dàn dựng thiên về “không gian dẹt” (shallow
space) thiếu hẳn chiều sâu kết hợp với “ánh sáng ven” (side
lighting) thường chỉ rọi đến một phần nhỏ trên khuôn mặt con người
hoặc bề mặt vật thể, Caligari dường như chỉ còn là một thế giới
phẳng hai chiều và ngập tràn bóng tối. Như thường xuyên bộ phim
biểu hiện chủ nghĩa khác, nó không những giản đơn phản chiếu cuộc
sống tâm lý bất thường hay sự thiểu năng tri giác của một cá thể
nhân vật: Phía sau thế giới méo lệch dị thường và không thể nắm bắt
kia là cảm quan hoang mang và bất ổn của con người nói chung trước
thực tại hỗn độn đầy tai biến ở “phía bên kia” nền văn minh hiện
đại (phía của chiến tranh, tội ác, của sự xói mòn nhân tính và lòng
tin…).
Trong một bộ phim tiêu biểu khác của Chủ nghĩa
biểu hiện- Metropolis (Fritz Lang), các nhà làm phim Đức đi xa hơn
về mặt thời gian và đồ họa khi dựng nên bức tranh tương lai của nền
văn minh kĩ trị (năm 2026). Khung cảnh lúc này không bị bóp méo và
thu hẹp đi như trong Caligari mà được phóng đại lên một cách dị
thường: những toà nhà, những căn phòng, những cỗ máy… bỗng trở nên
to lớn mênh mông và “nuốt chửng” lấy con người. Con người, dù tập
hợp thành đội ngũ hay đám đông, vẫn cô độc nhỏ nhoi vô cùng giữa
quần thể đồ đạc điệp trùng và lạnh lẽo. Chính xác hơn, trong phim
biểu hiện chủ nghĩa, trên cả phương diện nhân vật điện ảnh lẫn
khách thể đời sống, con người đều đặn không trở thành trung tâm của
thế giới – kẻ nắm được toàn bộ những gì đang diễn ra quanh mình
(hay kẻ điều khiển được “dòng tự sự” – như các nhà làm phim
Hollywood vẫn thường thể hiện). Nổi bật lên trên tất cả những điều
đó là niềm dự cảm chất chứa sợ hãi – rằng một ngày kia không xa –
chính “nền văn minh” do con người tạo nên sẽ cầm tù thân phận và
cầm tù tâm hồn con người…
Cảnh trong phim Metropolis
Như vậy, việc chủ động phá vỡ tính trong sáng hài
hòa của cách thức tự sự ở các nhà làm phim biểu hiện chủ nghĩa thực
chất là nỗ lực cấu trúc nên một hiện thực mới: hiện thực tâm linh
sâu thẳm và thấm đẫm tính chủ quan của con người hiện đại. Hiện
thực ấy khác về chất với thứ hiện thực tường minh, khách quan và
duy lý trong phim của các nhà kinh điển Hollywood mà chúng ta đã
nhắc ở trên. Đồng thời, kiểu dựng phim cách điệu cực độ để tái tạo
một thực tại đầy xúc cảm bên trong (hơn là tái hiện thực tại trên
bề mặt) cũng bộc lộ mạnh mẽ quan niệm đề cao tính nghệ thuật của
điện ảnh, tính sáng tạo của cá nhân nhà làm phim. Nói cách khác, đó
là sự đề cao “cái biểu hiện” trong tương quan với “cái được biểu
hiện” như là một đối trọng với quan niệm làm phim cổ điển.Đến
cuối thập niên 20, để cố gắng chống lại sự cạnh tranh dữ dội của
phim nhập khẩu từ Hollywood, người Đức cũng bắt đầu mô phỏng các
danh mục của nước Mỹ. Chính những bộ phim ấy đã dần kéo theo sự tàn
lụi của Chủ nghĩa biểu hiện (Expressionist movement) với tư cách là
một trào lưu trong điện ảnh Đức. tuy nhiên, chiều hướng biểu hiện
chủ nghĩa (expressionist tendency) vẫn phảng phất trong thường
xuyên phim Đức ở thập niên tiếp theo. Tầm ảnh hưởng còn lan đến
Hollywood đặc biệt ở thể loại phim kinh dị (horror film) và phim
đen (noir film) – nhất là trong khâu dàn dựng khung cảnh và ánh
sáng. Sức sống của sáng tạo chính là ở đó: ngay cả khi những tuyên
ngôn về cái Mới đã chìm khuất vào lãng quên, thì tiếng vọng và tinh
thần cách tân của nó vẫn tiềm ẩn trong những gì còn lại. Nói theo
kiểu Bakhtin khi bàn về vai trò của tiểu thuyết với các thể loại
sinh thành trước nó: trong thời đại phim Biểu hiện Đức ra đời
(tương đương phim Siêu thực Pháp, phim Tân hiện thực Ý, phim
Montage Xôviết…), nghệ thuật cổ điển Hollywood không thể tồn tại
theo một kiểu thức “như xưa” nữa mà đã “vang âm theo một cách hoàn
toàn khác trước”. Vì chỉ có sáng tạo mới đánh thức được sáng tạo,
và cũng chỉ có sáng tạo mới làm nên sự đa sắc đa thanh của thế giới
nghệ thuật ./.
Hoàng
Cẩm Giang
Xem thêm:
Các câu hỏi về nghĩa biểu hiện là gì
Nếu có bắt kỳ câu hỏi thắc mắt nào vê nghĩa biểu hiện là gì hãy cho
chúng mình biết nhé, mõi thắt mắt hay góp ý của các bạn sẽ giúp
mình cải thiện hơn trong các bài sau nhé