Bài viết Csbt là gì thuộc chủ đề về Giải Đáp thời gian này
đang được rất nhiều bạn quan tâm đúng không nào !! Hôm nay, Hãy
cùng khoalichsu.edu.vn tìm
hiểu Csbt là gì trong bài viết hôm nay nhé ! Các bạn đang xem bài :
“Csbt là gì”
Đánh giá về Csbt là gì
Xem nhanh
Kết quả xét nghiệm có khả năng giúp chẩn đoán ở bệnh nhân có triệu chứng (xét nghiệm chẩn đoán) hoặc xác định bệnh ẩn ở bệnh nhân không có triệu chứng (sàng lọc). mặc khác kết quả xét nghiệm có khả năng gây trở ngại cho việc đưa ra quyết định lâm sàng, nếu xét nghiệm phân biệt kém giữa bệnh nhân có và không có bệnh, nếu kết quả không phù hợp với hình ảnh lâm sàng hoặc nếu kết quả xét nghiệm không được hợp nhất vào bối cảnh lâm sàng.
- Xác định kết quả xét nghiệm dương tính
- Phân bố các kết quả xét nghiệm.
- Đường cong đặc trưng hoạt động của bộ thu nhận (đường cong ROC)
- Đường cong đặc trưng vận hành của bộ thu nhận (đường cong ROC)
- Đặc điểm của xét nghiệm
- Độ nhạy, độ đặc hiệu, và tổng giá trị dự đoán
- Tỷ lệ xác suất (LRs)
- Test nhị phân
- Thử nghiệm liên tục
- Nguyên lý Bayes
- Tính toán tỷ lệ xác suất
- Toán đồ tỷ lệ xác suất
- Toán đồ Fagan.
- Cách tiếp cận theo dạng bảng
- Test tuần tự
- Xét nghiệm sàng lọc
- Tầm soát đa xét nghiệm
- Ngưỡng xét nghiệm
- Toán đồ Fagan được dùng để quyết định cần phải xét nghiệm hay không
- Mô tả ngưỡng xét nghiệm và điều trị.
- Video liên quan
Các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm là không chính xác tuyệt đối và có khả năng nhầm lẫn trong việc xác định bệnh ở người khỏe mạnh (kết quả dương tính giả) hoặc xác định người có bệnh là không mắc bệnh (kết quả âm tính giả). có khả năng nhận dạng bệnh một cách chính xác phụ thuộc vào có khả năng mắc bệnh (xác suất gỉa thuyết không phụ thuộc điều kiện) và đặc điểm xét nghiệm.
Mặc dù xét nghiệm là một phần rất quan trọng phục vụ chẩn đoán, nhưng, xét nghiệm cũng có những tác động nhu cầu và không mong muốn. Việc xét nghiệm phải được thực hiện với sự cân nhắc, có mục đích và với kỳ vọng rằng kết quả xét nghiệm sẽ làm Giảm sự mơ hồ đối với các vấn đề của bệnh nhân và góp phần cải thiện hơn tình trạng sức khỏe của họ. Ngoài các nguy cơ cung cấp thông tin không chính xác (do đó trì hoãn việc điều trị hoặc gây ra ra điều trị không cần thiết), các xét nghiệm cận lâm sàng có thể làm tiêu tốn chi phí điều trị và gây ra ra các biến chứng không mong muốn (ví dụ, tràn khí màng phổi do sinh thiết phổi) hoặc có thể làm thêm xét nghiệm không cần thiết.
Xác định kết quả xét nghiệm dương tính
Trong số các xét nghiệm, phổ biến nhất là những xét nghiệm cung cấp kết quả theo quy mô liên tục, định lượng (ví dụ: đường huyết, số lượng bạch cầu). Các xét nghiệm này có khả năng cung cấp thông tin lâm sàng hữu ích trong phạm vi của chúng, nhưng các bác sỹ lâm sàng thường sử dụng chúng để chẩn đoán bệnh bằng cách yêu cầu kết quả được phân loại là dương tính hoặc âm tính (ví dụ có bệnh hoặc không bêjnh) dựa trên so sánh với một vài tiêu chuẩn hay điểm cắt. Những điểm cắt như vậy thường được lựa chọn dựa trên phân tích nghiên cứu và khái niệm cố gắng để cân bằng tỷ lệ kết quả dương tính giả (gây ra ra các xét nghiệm hoặc điều trị không rất cần thiết, tốn kém và có thể nguy hiểm) và kết quả âm tính giả (không chẩn đoán được bệnh có khả năng điều trị). Xác định điểm cắt cũng phụ thuộc vào việc liệu có tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán xác định bệnh lý đang nghi ngờ hay không.
Thông thường, các kết quả kiểm tra định lượng như vậy (ví dụ, xét nghiệm bạch cầu trong trường hợp nghi ngờ viêm ruột thừa) thường được mô tả dưới dạng đường cong phân bố (không nhất thiết phải là đường cong bình thường, mặc dù thường được mô tả như vậy). Sự phân bố các kết quả xét nghiệm cho bệnh nhân được tập trung vào một điểm khác biệt so với người không mắc bệnh. một số bệnh nhân mắc bệnh sẽ có kết quả rất cao hoặc rất thấp, nhưng hầu hết đều đặn có kết quả trung bình. Ngược lại, một số bệnh nhân không mắc bệnh có kết quả rất cao hoặc rất thấp, nhưng hầu hết đều có kết quả trung bình dựa trên một ý nghĩa khác với bệnh nhân mắc bệnh. Đối với hầu hết các xét nghiệm, có điểm giao thoa kết quả xét nghiệm, nhiều kết quả xét nghiệm khác nhau có thể có ở bệnh nhân có bệnh và không có bệnh; các kết quả như vậy được minh họa rõ ràng hơn khi các đường cong được mô tả trên cùng một đồ thị (xem Hình: Phân bố các kết quả xét nghiệm. Phân bố các kết quả xét nghiệm. Kết quả xét nghiệm có thể giúp chẩn đoán ở bệnh nhân có triệu chứng (xét nghiệm chẩn đoán) hoặc xác định bệnh ẩn ở bệnh nhân không có triệu chứng (sàng lọc). mặc khác kết quả xét nghiệm có… đọc thêm ). một vài bệnh nhân ở trên và dưới điểm cắt được lựa chọn sẽ được mô tả không chính xác. Điều chỉnh điểm cắt để xác định thêm bệnh nhân mắc bệnh (tăng độ nhạy của xét nghiệm) cũng làm tăng số lượng dương tính giả (độ đặc hiệu kém), và di chuyển điểm cắt theo cách ngược lại sẽ giúp tránh dương tính giả nhưng lại tăng số lượng âm tính giả. Mỗi điểm cắt được kết hợp với xác suất chi tiết của kết quả dương tính và dương tính giả.
✅ Mọi người cũng xem : xin giấy phép tiếng anh là gì
Phân bố các kết quả xét nghiệm.
Bệnh nhân bị bệnh được thể hiện ở phần phân bố trên; bệnh nhân không bị bệnh được thể hiện ở phân bố dưới. Đối với bệnh nhân bị bệnh, vùng dưới sự phân bố các kết quả nằm ở bên phải (ở trên) điểm cut phù hợp với tỷ lệ dương tính thật của xét nghiệm (nghĩa là độ nhạy của nó); vùng nằm phía bên trái của điểm cut (bên dưới) tương ứng với tỷ lệ âm tính giả. Đối với bệnh nhân không có bệnh, khu vực ở bên phải của điểm cut tương ứng với tỷ lệ dương tính giả, và vùng bên trái tương ứng với tỷ lệ âm tính thật (nghĩa là độ đặc hiệu của nó). Đối với 2 phân bố chồng chéo (ví dụ bệnh nhân có bệnh và không có bệnh), di chuyển điểm cut gây ảnh hưởng độ nhạy và độ đặc hiệu, nhưng theo các hướng ngược lại; việc thay đổi ngay điểm cắt từ 1 đến 2 làm hạn chế số âm tính giả (tăng độ nhạy) nhưng cũng làm tăng số lượng dương tính giả (hạn chế độ đặc hiệu). ![]() |
✅ Mọi người cũng xem : mơ đám cưới là điềm gì
Đặc điểm của xét nghiệm
một vài biến lâm sàng chỉ có 2 kết quả có thể (ví dụ, sống / chết, có thai / không mang thai); các biến này được gọi là biến phân loại và nhị phân. Các kết quả phân loại khác có khả năng có thường xuyên tổng giá trị rời rạc (ví dụ, nhóm máu, thang điểm Glasgow) và được gọi là biến danh mục hoặc thứ hạng. Các biến số sản phẩm như nhóm máu không có thứ tự đặc biệt. Các biến số thứ hạng như Thang điểm Glasgow Coma có các giá trị rời rạc được sắp xếp theo một thứ tự nhất định. Các biến lâm sàng khác, bao gồm thường xuyên xét nghiệm chẩn đoán điển hình, liên tục và có vô số các kết quả có thể (ví dụ, số lượng WBC, mức đường huyết). nhiều bác sĩ lâm sàng chọn một điểm cắt làm biến liên tục chuyển thành biến nhị phân (ví dụ, bệnh nhân có mức đường trong máu lúc đói > 126 mg / dL được xem là có bệnh tiểu đường). Các xét nghiệm chẩn đoán liên tục khác có thuận tiện ích chẩn đoán khi chúng có nhiều điểm cắt hoặc khi phạm vi kết quả có tổng giá trị chẩn đoán khác nhau.
Khi kết quả xét nghiệm có khả năng được định nghĩa là dương tính hoặc âm tính, tất cả các kết quả có khả năng có khả năng được ghi lại trong một bảng dễ dàng 2 × 2 (xem Bảng: Phân bố kết quả kiểm tra giả thuyết Phân bố kết quả kiểm tra giả thuyết Kết quả xét nghiệm có khả năng giúp chẩn đoán ở bệnh nhân có triệu chứng (xét nghiệm chẩn đoán) hoặc xác định bệnh ẩn ở bệnh nhân không có triệu chứng (sàng lọc). tuy nhiên kết quả xét nghiệm có… đọc thêm ) có thể tính được những đặc tính xét nghiệm phân biệt quan trọng, bao gồm độ nhạy, độ đặc hiệu, tổng giá trị tiên đoán dương và âm, và tỷ lệ xác suất (LR)xem Bảng: Phân bố kết quả test trong một thử nghiệm giả định test en esterase bạch cầu trong nhóm 1000 phụ nữ với tỷ lệ UTI giả thuyết là 30% Phân bố kết quả test trong một thử nghiệm giả định test en esterase bạch cầu trong nhóm 1000 phụ nữ với tỷ lệ UTI giả thuyết là 30% Kết quả xét nghiệm có thể giúp chẩn đoán ở bệnh nhân có triệu chứng (xét nghiệm chẩn đoán) hoặc xác định bệnh ẩn ở bệnh nhân không có triệu chứng (sàng lọc). mặc khác kết quả xét nghiệm có… đọc thêm ).
Tỷ lệ xác suất (LRs)
Không giống như độ nhạy và độ đặc hiệu, không áp dụng cho xác suất bệnh nhân xác định, LR cho phép các bác sĩ lâm sàng giải thích các kết quả xét nghiệm ở một bệnh nhân chi tiết với xác suất trước xét nghiệm của bệnh đã được biết (thường là ước lượng).
LR mô tả sự thay đổi của xác suất mắc bệnh trước xét nghiệm khi kết quả xét nghiệm đã được biết và trả lời câu hỏi, “Xác suất sau khi xét nghiệm đã thay đổi như thế nào khi kết quả xét nghiệm được biết?” thường xuyên xét nghiệm lâm sàng là biến nhị phân; chúng nằm trên điểm cắt (dương tính) hoặc dưới điểm cắt (âm tính) và chỉ có 2 kết quả. Các xét nghiệm khác cho kết quả liên tục hoặc xảy ra trong một phạm vi mà thường xuyên điểm cắt được chọn. Xác suất thực tế sau xét nghiệm phụ thuộc vào độ lớn của LR (phụ thuộc vào đặc tính hoạt động thử nghiệm) và dự đoán xác suất của bệnh. Khi xét nghiệm là biến nhị phân và kết quả là dương tính hoặc âm tính, độ nhạy và độ đặc hiệu có thể được dùng để tính LR dương tính (LR+) hoặc LR âm tính(LR-).
LR+:Tỉ lệ khả năng kết quả xét nghiệm dương tính xảy ra ở bệnh nhân có bệnh (dương tính thật) với khả năng kết quả dương tính xảy ra ở bệnh nhân không mắc bệnh (dương tính giả)
LR–:Tỷ lệ có khả năng kết quả xét nghiệm âm tính xảy ra ở bệnh nhân có bệnh (âm tính giả) với có khả năng kết quả xét nghiệm âm tính xảy ra ở bệnh nhân không mắc bệnh (âm tính thật)
Khi kết quả là liên tục hoặc có thường xuyên điểm cắt, đường cong ROC, chứ không phải độ nhạy và độ đặc hiệu, được sử dụng để tính LR thì LR không còn được mô tả là LR+ hay LR-.
Vì LR là một tỷ lệ các sự kiện loại trừ lẫn nhéu chứ không phải là một phần của tổng số, nó đại diện cho tỷ lệ Xác suất và tỷ suất một trong số những chiến thuật được sử dụng phổ biến nhất để ra quyết liệt y khoa là tạo ra giả thuyết, sau đó kiểm chứng giả thuyết Các giả thuyết chẩn đoán được chấp nhận hoặc từ chối dựa trên… đọc thêm chứ không phải là xác suất. Đối với một xét nghiệm nhất định, LR khác với kết quả dương tính và âm tính.
Ví dụ, cho kết quả xét nghiệm dương tính, LR là 2.0 cho biết tỷ lệ chênh lệch là 2: 1 (dương tính thật: dương tính giả) là kết quả xét nghiệm dương tính đại diện cho bệnh nhân bị bệnh. Trong 3 xét nghiệm dương tính, 2 trường hợp xảy ra ở bệnh nhân có bệnh (dương tính thực) và 1 trường hợp xảy ra ở bệnh nhân không mắc bệnh (dương tính giả). Bởi vì dương tính thực và dương tính giả là thành phần của công thức tính độ nhạy và tính đặc hiệu, LR+ cũng có thể được tính như độ nhạy / (1 độ đặc hiệu). LR + càng lớn, thông tin xét nghiệm dương tính càng có giá trị, một xét nghiệm dương tính có LR+ > 10 được coi là bằng chứng mạnh mẽ ủng hộ chẩn đoán. Nói cách khác, ước tính xác suất bị bệnh trước xét nghiệm sẽ tăng mạnh về hướng 100% khi xét nghiệm dương tính có LR cao+.
Đối với kết quả xét nghiệm âm tính, LR- là 0,25 cho thấy tỷ lệ 1: 4 (âm tính giả : âm tính thật) là kết quả xét nghiệm âm tính đại diện cho một bệnh nhân bị bệnh. Trong 5 kết quả xét nghiệm âm tính, một kết quả sẽ xảy ra trên bệnh nhân có bệnh (âm tính giả) và 4 sẽ xuất hiện ở bệnh nhân không có bệnh (âm tính thật). LR- cũng có khả năng được tính như sau (1 độ nhạy / độ đặc hiệu. LR – càng nhỏ, tổng giá trị thông tin của xét nghiệm âm tính cung cấp càng lớn, một xét nghiệm với tổng giá trị âm tính có LR < 0,1 được coi là bằng chứng mạnh mẽ loại trừ chẩn đoán. Nói cách khác, ước tính xác suất mắc bệnh trước xét nghiệm sẽ gần bằng 0% khi xét nghiệm âm tính có LR- thấp.
Kết quả xét nghiệm với LRs 1.0 không mang thông tin và không ảnh hưởng đến xác suất mắc bệnh trước test
LRs tiện cho việc so sánh cáctest và cũng được dùng trong Phân tích Bayesian Nguyên lý Bayes Kết quả xét nghiệm có thể giúp chẩn đoán ở bệnh nhân có triệu chứng (xét nghiệm chẩn đoán) hoặc xác định bệnh ẩn ở bệnh nhân không có triệu chứng (sàng lọc). tuy nhiên kết quả xét nghiệm có… đọc thêm để diễn giải kết quả xét nghiệm. Độ nhạy và độ đặc hiệu khi điểm cắt thay đổi ngay, LRs cũng thế Một ví dụ giả thuyết, điểm cắt bạch cầu cao (ví dụ 20.000 /μL) trong trường hợp viêm ruột thừa cấp sẽ có độ đặc hiệu cao hơn và do đó LR+ cao, nhưng LR- cũng cao (và do đó không cung cấp được thường xuyên thông tin)-; trong khi chọn ngưỡng thấp hơn và độ nhạy cao hơn (ví dụ, 10.000 /μL) sẽ tạo LR thấp- và LR thấp+.
✅ Mọi người cũng xem : ý nghĩa tên ngọc trâm
Test nhị phân
Một test nhị phân lý tưởng sẽ không có kết quả sai hoặc âm tính giả; tất cả các bệnh nhân có kết quả xét nghiệm dương tính sẽ bị bệnh (100% PPV) và tất cả bệnh nhân có kết quả âm tính sẽ không mắc bệnh (100% NPV).
Trên thực tế, tất cả các xét nghiệm đều đặn có dương tính giả và âm tính giả, một số xét nghiệm có tỷ lệ âm tính giả và dương tính gỉa thường xuyên hơn những xét nghiệm khác. Để minh họa hệ lụy của độ nhạy và độ đặc hiệu không hoàn hảo của kết quả xét nghiệm, hãy xem xét kết quả giả thuyết (xem Bảng: Phân bố kết quả test trong một thử nghiệm giả định test en esterase bạch cầu trong nhóm 1000 phụ nữ với tỷ lệ UTI giả thuyết là 30% Phân bố kết quả test trong một thử nghiệm giả định test en esterase bạch cầu trong nhóm 1000 phụ nữ với tỷ lệ UTI giả thuyết là 30% Kết quả xét nghiệm có thể giúp chẩn đoán ở bệnh nhân có triệu chứng (xét nghiệm chẩn đoán) hoặc xác định bệnh ẩn ở bệnh nhân không có triệu chứng (sàng lọc). tuy nhiên kết quả xét nghiệm có… đọc thêm ) của xét nghiệm men esterase bạch cầu qua que nhúng nước tiểu trong một nhóm thuần tập 1000 phụ nữ, trong đó 300 (30%) có UTI (chẩn đoán xác định bằng tiêu chuẩn vàng là nuôi cấy nước tiểu). Giả định rằng test que nhúng có độ nhạy là 71% và độ đặc hiệu là 85%
Độ nhạy 71% có nghĩa là chỉ có 213 (71% trong số 300) phụ nữ có UTI sẽ có kết quả test dương tính. 87 người còn lại sẽ có kết quả test âm tính. Độ đặc hiệu 85% có nghĩa là 595 (85% của 700) phụ nữ không có UTI sẽ có kết quả xét nghiệm âm tính. 105 trường còn lại sẽ có kết quả test dương tính. do đó, trong 318 kết quả kiểm tra dương tính, chỉ có 213 là chính xác (213/318 = 67% PPV); test dương tính làm chẩn đoán UTI chính xác hơn không nhưng không chắc chắn. Cũng có 682 trường hợp âm tính, trong đó 595 là âm tính thật (595/682 = 87% NPV), những trường hợp này ít khả năng là UTI nhưng không phải là không thể, 13% bệnh nhân có kết quả test âm tính nhưng có UTI.
tuy nhiên, PPV và NPVs xuất phát từ nhóm bệnh nhân thuần tập này không thể được sử dụng để giải thích kết quả của cùng một thử nghiệm khi tỷ lệ mắc bệnh cơ bản (thử nghiệm trước hoặc xác suất trước) là khác nhéu. Lưu ý những tác động của việc thay đổi ngay tỷ lệ mắc bệnh lên 5% (xem Bảng: Phân bố kết quả thử nghiệm của test men esterase bạch cầu trong một nhóm thuần tập 1000 phụ nữ với tỷ lệ UTI giả định là 5% Phân bố kết quả thử nghiệm của test men esterase bạch cầu trong một nhóm thuần tập 1000 phụ nữ với tỷ lệ UTI giả định là 5% Kết quả xét nghiệm có khả năng giúp chẩn đoán ở bệnh nhân có triệu chứng (xét nghiệm chẩn đoán) hoặc xác định bệnh ẩn ở bệnh nhân không có triệu chứng (sàng lọc). mặc khác kết quả xét nghiệm có… đọc thêm ). hiện nay hầu hết các kết quả dương tính là sai, PPV chỉ 20%; một bệnh nhân có kết quả dương tính có nghĩa là có thường xuyên khả năng không mắc UTI. tuy nhiên, NPV hiện nay rất cao (98%); một kết quả âm tính về cơ bản loại trừ UTI.
Lưu ý rằng trong cả hai nhóm bệnh nhân, mặc dù PPV và NPV rất khác nhau, LRs không thay đổi ngay vì LRs chỉ được xác định bởi độ nhạy và độ đặc hiệu của xét nghiệm.
Rõ ràng, kết quả xét nghiệm không đưa ra chẩn đoán xác định mà chỉ ước tính xác suất mắc bệnh có hoặc không, và xác suất sau xét nghiệm nghiệm (khả năng mắc bệnh cho kết quả xét nghiệm cụ thể) khác nhau rất nhiều dựa trên xác suất trước bệnh cũng như độ nhạy và độ đặc hiệu của xét nghiệm (và do đó là LR).
Xác suất trước test không phải là phép đo chính xác; nó dựa trên sự đánh giá lâm sàng về mức độ các triệu chứng cơ năng và thực thể cho thấy rằng bệnh này có mặt, những yếu tố nào trong tiền sử bệnh nhân hỗ trợ chẩn đoán và căn bệnh phổ biến như thế nào. nhiều thang điểm đánh giá lâm sàng được thiết kế để ước lượng xác suất trước test; thêm điểm cho các tính năng lâm sàng khác nhéu tạo điều kiện cho việc tính điểm. Những ví dụ minh hoạ tầm quan trọng của ước tính chính xác xác suất trước test vì tỷ lệ bệnh trong quần thể được xem xét ảnh hưởng một cách đáng kể tới tính tối ưu của xét nghiệm. Cần sử dụng các công cụ ước tính tỷ lệ phổ biến đã công bố hợp lệ khi chúng có sẵn. Ví dụ, có các tiêu chí để dự đoán xác suất trước test của tắc mạch phổi (xem Xác suất lâm sàng Xác suất lâm sàng Tắc mạch phổi là tắc nghẽn 1 nhánh động mạch phổi do huyết khối xuất phát từ nơi khác, điển hình là ở tĩnh mạch lớn ở chân hoặc khung chậu. Các yếu tố nguy cơ gây tắc mạch phổi là các bệnh… đọc thêm

✅ Mọi người cũng xem : bạn ăn cơm chưa tiếng anh là gì
Nguyên lý Bayes
quá trình sử dụng xác suất trước test của bệnh và các đặc tính của test để xác định xác suất sau test được gọi là định lý Bayes hoặc định lý Bayesian sửa đổi. Đối với thực hành lâm sàng thường quy, phương pháp Bayesian thường có nhiều dạng:
Định dạng tỷ lệ xác suất (tính toán hoặc dạng biểu đồ)
Cách tiếp cận theo dạng bảng
Tính toán tỷ lệ xác suất
Nếu xác suất trước test của bệnh được thể hiện bằng tỷ lệ của nó và vì LR của một test đại diện cho tỷ lệ, sản phẩm của 2 đại diện cho tỷ lệ mắc bệnh sau khi kiểm tra (tương tự như nhân 2 xác suất với nhau để tính xác suất xảy ra đồng thời là 2 sự kiện):
Tỷ lệ sác xuất trước test × LR = tỷ lệ xác suất sau test
Bởi vì các bác sĩ lâm sàng thường nghĩ về xác suất chứ không phải là tỷ lệ, xác suất có khả năng được chuyển đổi thành tỷ lệ (và ngược lại) với các công thức sau:
Tỷ lệ = xác suất / 1 xác suất
Xác suất = tỷ lệ / tỷ lệ + 1
Xem xét ví dụ về UTI như được đưa ra trong Phân bố kết quả test trong một thử nghiệm giả định test en esterase bạch cầu trong nhóm 1000 phụ nữ với tỷ lệ UTI giả thuyết là 30% Phân bố kết quả test trong một thử nghiệm giả định test en esterase bạch cầu trong nhóm 1000 phụ nữ với tỷ lệ UTI giả thuyết là 30% Kết quả xét nghiệm có thể giúp chẩn đoán ở bệnh nhân có triệu chứng (xét nghiệm chẩn đoán) hoặc xác định bệnh ẩn ở bệnh nhân không có triệu chứng (sàng lọc). tuy nhiên kết quả xét nghiệm có… đọc thêm , trong đó xác suất trước test của UTI là 0,3, và test đang được dùng có LR+ là 4,73 và LR- là 0,34. Xác xuất trước test là 0,3 tương ứng với tỷ lệ là 0,3 / (1 0.3) = 0.43. do đó, tỷ lệ sau test UTI xuất hiện ở bệnh nhân có kết quả xét nghiệm dương tính kết quả nhân tỷ lệ trước test với LR+; 4.73 × 0.43 = 2,03, đại diện cho một xác suất sau test 2,03 / (1 + 2.03) = 0.67. do đó, tính toán của Bayes cho thấy một kết quả test dương tính làm tăng xác suất trước test từ 30% lên 67%, kết quả tương tự thu được trong tính toán PPV Phân bố kết quả test trong một thử nghiệm giả định test en esterase bạch cầu trong nhóm 1000 phụ nữ với tỷ lệ UTI giả thuyết là 30% Phân bố kết quả test trong một thử nghiệm giả định test en esterase bạch cầu trong nhóm 1000 phụ nữ với tỷ lệ UTI giả thuyết là 30% Kết quả xét nghiệm có thể giúp chẩn đoán ở bệnh nhân có triệu chứng (xét nghiệm chẩn đoán) hoặc xác định bệnh ẩn ở bệnh nhân không có triệu chứng (sàng lọc). tuy nhiên kết quả xét nghiệm có… đọc thêm .
Một phép tính tương tự được thực hiện cho một xét nghiệm âm tính; tỷ lệ sau test = 0.34 × 0.43 = 0,15, tương ứng với xác suất là 0,15 / (1 + 0.15) = 0.13. Vì vậy, kết quả xét nghiệm âm tính làm Giảm xác suất trước test từ 30% xuống 13%, một lần nữa kết quả tương tự thu được trong tính toán NPV Phân bố kết quả test trong một thử nghiệm giả định test en esterase bạch cầu trong nhóm 1000 phụ nữ với tỷ lệ UTI giả thuyết là 30% Phân bố kết quả test trong một thử nghiệm giả định test en esterase bạch cầu trong nhóm 1000 phụ nữ với tỷ lệ UTI giả thuyết là 30% Kết quả xét nghiệm có khả năng giúp chẩn đoán ở bệnh nhân có triệu chứng (xét nghiệm chẩn đoán) hoặc xác định bệnh ẩn ở bệnh nhân không có triệu chứng (sàng lọc). mặc khác kết quả xét nghiệm có… đọc thêm .
thường xuyên chương trình máy tính y khoa chạy trên thiết bị cầm tay có sẵn để tính toán xác suất sau test từ xác suất trước test và LRs.
Xét nghiệm sàng lọc
Bệnh nhân thường phải cân nhắc có nên sàng lọc một bệnh lý tiềm ẩn hay không. Cơ sở của chương trình sàng lọc là phát hiện sớm sẽ cải thiện hơn kết cục ở bệnh nhân có bệnh ẩn, và kết quả dương tính giả thường xảy ra trong quá trình sàng lọc không tạo ra gánh nặng (ví dụ chi phí và tác dụng bất lợi của xét nghiệm, khẳng định, điều trị không có lý do chính đáng) vượt quá lợi ích đó. Để hạn chế thiểu những gánh nặng có thể xảy ra này, bác sĩ lâm sàng phải chọn xét nghiệm sàng lọc thích hợp. Việc sàng lọc không phù hợp khi điều trị không hiệu quả hoặc bệnh này rất hiếm gặp (trừ khi có khả năng xác định được một trong số đó là tỷ lệ hiện mắc cao hơn).
Về mặt lý thuyết, xét nghiệm tốt nhất cho cả sàng lọc và chẩn đoán là xét nghiệm có độ nhạy cao nhévà độ đặc hiệu cao nhất. mặc khác, các xét nghiệm chính xác cao như vậy thường phức tạp, tốn kém, và mang tính xâm lấn cao (ví dụ, chụp mạch vành), do đó, không mang tính thực tế trong việc sàng lọc số lượng lớn những người không có triệu chứng. Thông thường, phải có sự cân bằng về độ nhạy, độ đặc hiệu, hoặc cả hai khi lựa chọn xét nghiệm sàng lọc.
Vấn đề bác sỹ lâm sàng có chọn xét nghiệm để tối ưu hóa độ nhạy hoặc độ đặc hiệu hay không phụ thuộc vào kết quả của kết quả dương tính giả hoặc âm tính giả cũng như xác suất trước khi xét nghiệm bệnh. Một xét nghiệm sàng lọc lý tưởng sẽ luôn có kết quả dương tính ở hầu hết các bệnh nhân mắc bệnh, khi đó kết quả âm tính sẽ chắc chắn loại trừ bệnh ở người khỏe mạnh. Khi xét nghiệm tầm soát bệnh lý nặng có sẵn các phương thức điều trị hiệu quả (bệnh động mạch vành), các bác sĩ lâm sàng sẽ sẵn sàng chấp nhận kết quả dương tính giả hơn âm tính giả (độ đặc hiệu thấp và độ nhạy cao). Mặc dù độ nhạy cao là một thuộc tính rất quan trọng cho các xét nghiệm tầm soát, độ đặc hiệu cũng rất quan trọng trong các chiến lược sàng lọc nhất định. Trong số những người có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn, PPV của một test sàng lọc tăng lên; khi tỷ lệ hiện mắc Giảm, xác suất sau test hoặc tỷ lệ sau test dương tính cũng Giảm Vì vậy, khi sàng lọc bệnh ở các quần thể có nguy cơ cao, các xét nghiệm với độ nhạy cao được ưu tiên hơn những xét nghiệm có độ đặc hiệu cao bởi vì chúng có khả năng loại trừ bệnh (ít âm tính giả hơn). mặt khác, ở những nhóm có nguy cơ thấp hoặc những bệnh không thường nhật, trong đó liệu pháp có lợi ích thấp hơn hoặc có nguy cơ cao hơn, các xét nghiệm với độ đặc hiệu cao hơn được ưu tiên hơn.
Ngưỡng xét nghiệm
Chỉ nên tiến hành xét nghiệm nến kết quả của nó ảnh hưởng đến việc quản lý điều trị; nếu không; bệnh nhân sẽ phải chịu chi phí và rủi ro vô ích. Các bác sĩ lâm sàng đôi khi có thể đưa ra quyết định khi nào nên kiểm tra bằng cách so sánh các ước lượng xác suất trước khi thử nghiệm và sau khi thử nghiệm với các ngưỡng nhất định. Trên ngưỡng xác suất nhất định, lợi ích lớn hơn nguy cơ khi điều trị (bao gồm cả nguy cơ nhầm lẫn khi điều trị bệnh nhân không mắc bệnh) và điều trị được chỉ định. Điểm này được gọi là ngưỡng điều trị (TT) và được xác định như đã mô tả trước đó (xem Xác suất ước tính và ngưỡng điều trị Xác suất ước tính và ngưỡng điều trị một trong số những chiến thuật được dùng phổ biến nhất để ra quyết định y khoa là tạo ra giả thuyết, sau đó kiểm chứng giả thuyết Các giả thuyết chẩn đoán được chấp nhận hoặc từ chối dựa trên… đọc thêm ). Theo định nghĩa, xét nghiệm là không cần thiết khi xác suất thử trước đã vượt quá TT. Nhưng xét nghiệm được chỉ định nếu xác suất xét nghiệm trước đó thấp hơn ngưỡng điều trị miễn là một kết quả kiểm tra dương tính có thể làm tăng xác suất sau khi thử nghiệm trên ngưỡng điều trị. Xác suất thử nghiệm thấp nhất khi xảy ra điều này phụ thuộc vào đặc tính xét nghiệm (ví dụ LR +) và được gọi là ngưỡng xét nghiệm.
Về mặt khái niệm, nếu xét nghiệm hấp dẫn nhất cho một căn bệnh nặng có LR + thấp và TT cao, thì có thể hiểu rằng một kết quả xét nghiệm dương tính có khả năng không làm tăng xác suất sau test trên TT ở bệnh nhân có tỷ lệ trước test thấp nhưng đáng lo ngại (có lẽ rơi vào khoảng 10% hoặc 20%).
Để minh họa rõ hơn bằng số liệu, xem xét trường hợp đã mô tả phía trên khi bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấpxem Xác suất ước tính và ngưỡng điều trị Xác suất ước tính và ngưỡng điều trị một trong số những chiến thuật được dùng phổ biến nhất để ra quyết liệt y khoa là tạo ra giả thuyết, sau đó kiểm chứng giả thuyết Các giả thuyết chẩn đoán được chấp nhận hoặc từ chối dựa trên… đọc thêm ), sự cân bằng giữa rủi ro và lợi ích đã giúp xác định TT là 25%. Khi xác suất xảy ra nhồi máu cơ tim vượt quá 25%, liệu pháp tiêu huyết khối được đưa ra. Khi nào nên làm siêu âm tim nhénh trước khi điều trị tiêu huyết khối? Giả định độ nhạy giả thuyết là 60% và độ đặc hiệu 70% đối với siêu âm tim trong chẩn đoán MI; những tỷ lệ phần trăm tương ứng với LR+ là 60 / (100 70) = 2 và LR- là (100 60)/70 = 0.57.
Vấn đề có thể được giải quyết theo toán học (tỷ lệ trước test × LR = tỷ lệ sau test) hoặc trực quan hơn bằng cách dùng toán đồ Fagan (xem Hình: Toán đồ Fagan được sử dụng để quyết liệt cần phải xét nghiệm hay không Toán đồ Fagan được sử dụng để quyết định cần phải xét nghiệm hay không Kết quả xét nghiệm có thể giúp chẩn đoán ở bệnh nhân có triệu chứng (xét nghiệm chẩn đoán) hoặc xác định bệnh ẩn ở bệnh nhân không có triệu chứng (sàng lọc). tuy nhiên kết quả xét nghiệm có… đọc thêm ). Trên toán đồ, một đường nối TT (25%) trên đường xác suất sau test qua LR+ (2,0) cắt đường LR giữa tại một xác suất trước test khoảng 0,14. Rõ ràng, một xét nghiệm dương tính ở bệnh nhân có bất kỳ xác suất trưoc test < 14% vẫn sẽ kéo theo một xác suất sau test thấp hơn ngưỡng điều trị. Trong trường hợp này, siêu âm tim sẽ vô dụng vì ngay cả kết quả dương tính sẽ không dẫn đến quyết liệt điều trị; Vì vậy, 14% xác suất thử nghiệm là ngưỡng xét nghiệm cho xét nghiệm này (xem Hình: Mô tả ngưỡng xét nghiệm và điều trị. Mô tả ngưỡng xét nghiệm và điều trị. Kết quả xét nghiệm có thể giúp chẩn đoán ở bệnh nhân có triệu chứng (xét nghiệm chẩn đoán) hoặc xác định bệnh ẩn ở bệnh nhân không có triệu chứng (sàng lọc). mặc khác kết quả xét nghiệm có… đọc thêm ). Một thử nghiệm với một LR khác+ sẽ có một ngưỡng thử nghiệm khác.
Toán đồ Fagan được sử dụng để quyết định cần phải xét nghiệm hay không
Trong ví dụ này, bệnh nhân được cho là có ngưỡng điều trị (TT) là 25% đối với nhồi máu cơ tim cấp. Khi xác suất của MI vượt quá 25%, liệu pháp tiêu huyết khối được đưa ra. Các bác sĩ lâm sàng có thể sử dụng toán đồ Fagan để quyết định có nên làm siêu âm tim nhanh trước khi điều trị tiêu huyết khối. Giả sử rằng siêu âm tim có độ nhạy giả định là 60% và đặc hiệu là 70% đối với bệnh nhồi máu mới, tỷ lệ phần trăm tương ứng với tỷ suất có khả năng xảy ra (LR) của kết quả xét nghiệm dương tính (LR+) của 60 / (100 70) = 2. Một đường kết nối TT 25% trên đường xác suất sau khi thử nghiệm với LR+ (2,0) trên đường LR giữa có một xác suất trước khi thử nghiệm khoảng 0,14. Một kết quả xét nghiệm dương tính ở bệnh nhân có xác suất trước khi thử nghiệm < 14% vẫn tạo ra một xác suất sau khi thử nghiệm ít hơn TT. Theo Fagan TJ. Thư: Toán đồ cho định lý Bayes. New England Journal of Medicine 293:257, 1975. ![]() |
✅ Mọi người cũng xem : ý nghĩa tình yêu thương
Mô tả ngưỡng xét nghiệm và điều trị.
Đường ngang thể hiện xác suất sau test. ![]() |
Vì 14% vẫn là nguy cơ một cách đáng kể đối với MI, rõ ràng là xác suất bệnh dưới ngưỡng kiểm tra (ví dụ, xác suất 10% thử trước) không nhất thiết khẳng định loại trừ bệnh, nó chỉ đưa ra kết quả dương tính, và do đó, không chỉ định xét nghiệm. Trong trường hợp này, bác sĩ lâm sàng sẽ quan sát bệnh nhân, để có thêm những phát hiện có khả năng làm tăng xác suất trước test lên trên ngưỡng xét nghiệm. Trong thực tế, bởi một bệnh thường có sẵn thường xuyên xét nghiệm, có thể dùng phương pháp xét nghiệm tuần tự Test tuần tự Kết quả xét nghiệm có khả năng giúp chẩn đoán ở bệnh nhân có triệu chứng (xét nghiệm chẩn đoán) hoặc xác định bệnh ẩn ở bệnh nhân không có triệu chứng (sàng lọc). mặc khác kết quả xét nghiệm có… đọc thêm .
Ví dụ này xem xét một xét nghiệm không gây nguy hiểm cho bệnh nhân. Nếu xét nghiệm có những nguy cơ nghiêm trọng (ví dụ như đặt catheter), ngưỡng xét nghiệm phải cao hơn; có khả năng thực hiện tính toán định lượng nhưng phương pháp này khá phức tạp. Vì vậy, hạn chế độ nhạy và độ đặc hiệu của xét nghiệm hoặc tăng nguy cơ của nó sẽ giúp thu hẹp phạm vi xác suất của bệnh tới ngưỡng xét nghiệm là chiến lược hấp dẫn nhất. cải thiện có khả năng chẩn đoán phân biệt hoặc hạn chế nguy cơ của xét nghiệm sẽ mở rộng phạm vi xác suất tới ngưỡng xét nghiệm là chiến lược tốt nhất.
Một ngoại lệ có khả năng xảy ra đối với việc không làm xét nghiệm, đó là khi xác suất trước test dưới ngưỡng xét nghiệm (nhưng vẫn đáng lo ngại), có thể là nếu kết quả test âm tính có khả năng hạn chếxác suất sau thử nghiệm dưới ngưỡng mà tại đó có thể cân nhắc chẩn đoán loại trừ bệnh. Sự xác định này đòi hỏi một sự đánh giá chủ quan về mức độ chắc chắn rất cần thiết khi kết luận rằng bệnh có khả năng bị loại trừ, và bởi có xác suất thấp, cần đặc biệt chú ý đến bất kỳ nguy cơ nào của xét nghiệm.
Các câu hỏi về kết quả csbt là gì
Nếu có bắt kỳ câu hỏi thắc mắt nào vê kết quả csbt là gì hãy cho chúng mình biết nhé, mõi thắt mắt hay góp ý của các bạn sẽ giúp mình cải thiện hơn trong các bài sau nhé <3 Bài viết kết quả csbt là gì ! được mình và team xem xét cũng như tổng hợp từ nhiều nguồn. Nếu thấy bài viết kết quả csbt là gì Cực hay ! Hay thì hãy ủng hộ team Like hoặc share. Nếu thấy bài viết kết quả csbt là gì rât hay ! chưa hay, hoặc cần bổ sung. Bạn góp ý giúp mình nhé!!
Các Hình Ảnh Về kết quả csbt là gì
Các hình ảnh về kết quả csbt là gì đang được chúng mình Cập nhập. Nếu các bạn mong muốn đóng góp, Hãy gửi mail về hộp thư lienhe@domain.com. Nếu có bất kỳ đóng góp hay liên hệ. Hãy Mail ngay cho tụi mình nhé
Xem thêm báo cáo về kết quả csbt là gì tại WikiPedia
Bạn có thể tìm nội dung về kết quả csbt là gì từ web Wikipedia tiếng Việt.◄ Tham Gia Cộng Đồng Tại???? Nguồn Tin tại: https://khoalichsu.edu.vn/
???? Xem Thêm Chủ Đề Liên Quan tại : https://khoalichsu.edu.vn/hoi-dap/
Các bài viết liên quan đến