Bài viết Hiện tượng theo nghĩa triết học là gì? Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng thuộc chủ đề về Wiki How thời gian này đang được rất nhiều bạn quan tâm đúng không nào !! Hôm nay, Hãy cùng khoalichsu.edu.vn tìm hiểu Hiện tượng theo nghĩa triết học là gì? Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng trong bài viết hôm nay nhé ! Các bạn đang xem bài viết : “Hiện tượng theo nghĩa triết học là gì? Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượngXem thêm:
Đánh giá về Hiện tượng theo nghĩa triết học là gì? Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
Xem nhanh
Mình là một sinh viên chuyên ngành triết học. Mình hiểu được cảm giác hoang mang và không biết bắt đầu từ đâu với bộ môn này. Thành thực mà nói về kiến thức chuyên môn thì mình còn nhiều thiếu sót và chưa đủ sâu sắc nhưng mong rằng với sự chia sẻ gần gũi sẽ hỗ trợ thêm phần nào tư liệu để các bạn sinh viên tham khảo khi có sự quan tâm đến bộ môn triết học. Cảm ơn mọi người đã dành thời gian xem video của mình.
(Những vấn đề mình làm đều dựa trên tinh thần của Triết học Mác Lê-nin)
Kết nối với mình tại:
- Facebook: https://www.facebook.com/minhlahangnha
- Instagram: minhlahangnha
- Blog: https://minhlahang.blogspot.com/
#triethoc #dinhnghiatriethoc
Hiện tượng được định nghĩa như thế nào?
Que diêm bị đốt cháy, đây là một sự việc hay một sự kiện ta có thể thấy được, nên đây là hiện tượng.Hiện tượng là sự kiện xảy ra mà con người có thể quan sát, nhận biết được. Thuật ngữ hiện tượng thường nói đến một sự kiện hay sự việc gì đó bất thường và đặc biệt đối với người quan sát hoặc có thể là một sự kiện hay sự việc bình thường, thường dùng cho giới khoa học sử dụng. Ví dụ như trong vật lý, hiện tượng là nét đặc trưng của vật chất, năng lượng, hay không-thời gian, như Isaac Newton đã từng quan sát quỹ đạo của Mặt Trăng phát hiện ra lực hấp dẫn còn Galileo Galilei thì quan sát các chuyển động của một quả lắc, đây là nét đặc trưng của lực hấp dẫn.Xem thêm:
Đây là một so sánh giữa một ngọn nến đang cháy trên Trái Đất (bên trái), và một cái trong môi trường vi trọng lực được ISS tìm thấy (bên phải). Hiện tượng cũng có thể cũng là một sự việc hay sự kiện nào đấy nhưng diễn tiến trong mỗi cách khác nhau.
Trong giới ngọc học, hiện tượng là một hiệu ứng quang học bất thường xuất hiện trên một loại đá quý. Các hiệu ứng như loé màu (labradorescence), ngũ sắc (iridescence, ánh trăng (adularescence), mắt mèo ̣̣̣(chatoyancy, mảng sao (asterism), aventurescence, ánh đèn (lustre), và thay đổi màu sắc ̣(color change) là tất cả những hiện tượng loại này.
Ví dụ: Màu da cụ thể của một người nào đó là trắng, vàng hay đen… chỉ là hiện tượng, là vẻ bề ngoài.Qua đó, bản chất chính là mặt bên trong, mặt tương đối ổn định của hiện thực khách quan. Nó ẩn giấu đằng sau cái vẻ bề ngoài của hiện tượng và biểu lộ ra qua những hiện tượng ấy.Ngược lại, hiện tượng là mặt bên ngoài, mặt di động và biến đổi hơn của hiện thực khách quan. Nó là hình thức biểu hiện của bản chất.
Hiện tượng được định nghĩa trong triết học
Bài chi tiết: Bản chất và hiện tượng
Trong triết học, việc sử dụng từ hiện tượng là để nói đến một sự kiện có thể nhận biết được. Có thể nhận biết qua giác quan hoặc trong tâm trí.Thuật ngữ này bắt đầu được sử dụng trong triết học bởi triết gia người Đức Immanuel Kant, người đã bác bỏ vật tự thể (cho từ mà ông đã sử dụng “vật tự nó” – Ding an sich hoặc “vật tự vật” – thing-in-itself) hoặc Tuyệt đối. Kant bị ảnh hưởng bởi triết gia “tiền bối” Absolute về phần này trong triết lý của ông. Hiện tượng và vật tự thể tương quan với nhau, ta không thể trực tiếp dùng mắt mà thấy.Ngày nay, từ “hiện tượng” được dùng rất thường xuyên, nhưng cũng sẽ không dùng mãi mãi, chúng ta có thể hiểu là “xuất hiện”Xem thêm:
Bản chất là phạm trù triết học chỉ tổng hợp tất cả các mặt, các mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật đó. Ví dụ, trong xã hội có giai cấp bản chất của nhà nước là công cụ chuyên chính của giai cấp thống trị về kinh tế trong xã hội. bản chất này được thể hiện ra dưới nhiều hình thức cụ thể khác nhau phụ thuộc vào tương quan giai cấp trong xã hội. Bản chất gắn bó với cái chung nhưng không phải cái chung nào cũng là bản chất. chỉ những cái chung nào quy định sự vận động phát triển của sự vật mới là cái chung bản chất. ví dụ, người Việt Nam (nhìn chung) có cái chung là màu tóc đen và da vàng. Nhưng cái chung tóc đen và da vàng không phải là cái chung bản chất của người Việt Nam. Bản chất và quy luật là những phạm trù cùng bậc, tuy nhiên bản chất rộng hơn, phong phú hơn quy luật.Tóm lại, bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định ở bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật đó.Ví dụ: Bản chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội trong cuộc sống. Nếu ai đó không có bất cứ mối quan hệ xã hội nào, dù nhỏ nhất, thì người đó chưa phải là con người theo đúng nghĩa.
Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, bản chất và hiện tượng có mối quan hệ biện chứng như sau:
Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan trong cuộc sống:
– Cả bản chất và hiện tượng đều có thực, tồn tại khách quan bất kể con người có nhận thức được hay không.Lý do là vì:+ Bất kỳ sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất định. Các yếu tố ấy tham gia vào những mối liên hệ qua lại, đan xen chằng chịt với nhau, trong đó có những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định. Những mối liên hệ này tạo nên bản chất của sự vật.
+ Sự vật tồn tại khách quan. Mà những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định lại ở bên trong sự vật, do đó, đương nhiên là chúng cũng tồn tại khách quan.+ Hiện tượng chỉ là sự biểu hiện của bản chất ra bên ngoài để chúng ta nhìn thấy, nên hiện tượng cũng tồn tại khách quan.
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
– Không những tồn tại khách quan, bản chất và hiện tượng còn có mối liên hệ hữu cơ, gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau.
Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
Sự thống nhất đó thể hiện trước hết ở chỗ:+Bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện tượng. Bất kỳ bản chất nào cũng được bộc lộ qua những hiện tượng tương ứng.+ Hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của bản chất. Bất kỳ hiện tượng nào cũng là sự bộc lộ của bản chất ở mức độ nào đó nhiều hoặc ít.Về căn bản, bản chất và hiện tượng phù hợp với nhau. Không có bản chất nào tồn tại một cách thuần túy, không cần có hiện tượng. Ngược lại, cũng không có hiện tượng nào lại không phải là sự biểu hiện của một bản chất nhất định.
Bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ra những hiện tượng khác nhau:
Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng tương ứng với nó cũng sẽ thay đổi theo. Khi bản chất mất đi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất đi.– Chính nhờ có sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng, giữa cái quy định sự vận động, phát triển của sự vật với những biểu hiện nghìn hình, vạn vẻ của nó mà ta có thể tìm ra cái chung trong nhiều hiện tượng cá biệt, tìm ra quy luật phát triển của những hiện tượng ấy.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Muốn nhận thức đúng sự thật, hiện tượng thì không dừng lại ở hiện tượng bên ngoài mà phải đi vào bản chất. Phải thông qua nhiều hiện tượng khác nhau mới nhận thức đúng và đầy đủ bản chất. Theo V.I.Lênin: “Tư tưởng của người ta đi sâu một cách vô hạn, từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất cấp một… đến bản chất cấp hai…”.Nhiệm vụ của nhận thức nói chung, của khoa học nhận thức nói riêng là phải vạch ra được bản chất của sự vật.Còn trong hoạt động thực tiễn, cần dựa vào bản chất chứ không phải dựa vào hiện tượng.– Vì bản chất tồn tại khách quan ở ngay trong bản thân sự vật nên chỉ có thể tìm ra bản chất sự vật ở bên trong sự vật ấy chứ không phải ở bên ngoài nó. Khi kết luận về bản chất của sự vật, cần tránh những nhận định chủ quan, tùy tiện.– Vì bản chất không tồn tại dưới dạng thuần túy mà bao giờ cũng bộc lộ ra bên ngoài thông qua các hiện tượng tương ứng của mình nên chỉ có thể tìm ra cái bản chất trên cơ sở nghiên cứu các hiện tượng.– Trong quá trình nhận thức bản chất của sự vật phải xem xét rất nhiều hiện tượng khác nhau từ nhiều góc độ khác nhau.Sở dĩ như vậy vì hiện tượng bao giờ cũng biểu hiện bản chất dưới dạng đã cải biến, nhiều khi xuyên tạc bản chất.Nhưng trong một hoàn cảnh và một phạm vi thời gian nhất định ta không bao giờ có thể xem xét hết được mọi hiện tượng biểu hiện bản chất của sự vật. Do vậy, ta phải ưu tiên xem xét trước hết các hiện tượng điển hình trong hoàn cảnh điển hình.Dĩ nhiên, kết quả của một sự xem xét như vậy chưa thể phản ánh đầy đủ bản chất của sự vật. Mà đó mới chỉ phản ánh một cấp độ nhất định của nó. Quá trình đi vào nắm bắt các cấp độ tiếp theo, ngày càng sâu sắc hơn trong bản chất của sự vật là một quá trình hết sức khó khăn, lâu dài, công phu, không có điểm dừng.Cũng chính vì vậy, khi kết luận về bản chất của sự vật, chúng ta cần hết sức thận trọng.Xem thêm:
– Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là sự thống nhất biện chứng.Tức là, trong sự thống nhất ấy đã bao hàm sự khác biệt.Nói cách khác, tuy bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, về căn bản là phù hợp với nhau, nhưng chúng không bao giờ phù hợp với nhau hoàn toàn.Sở dĩ như vậy là vì bản chất của sự vật bao giờ cũng được thể hiện ra thông qua sự tương tác của sự vật ấy với những sự vật xung quanh. Các sự vật xung quanh này trong quá trình tương tác đã ảnh hưởng đến hiện tượng, đưa vào nội dung của hiện tượng những thay đổi nhất định.Kết quả là, hiện tượng biểu hiện bản chất nhưng không phải là sự biểu hiện y nguyên bản chất.– Sự không hoàn toàn trùng khớp khiến cho sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là một sự thống nhất mang tính mâu thuẫn.Tính mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng thể hiện ở chỗ:+ Bản chất phản ánh cái chung tất yếu, cái chung quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật. Còn hiện tượng phản ánh cái cá biệt.Vì vậy, cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ngoài bằng vô số hiện tượng khác nhau tùy theo sự biến đổi của của điều kiện và hoàn cảnh.Nội dung cụ thể của mỗi hiện tượng phụ thuộc không những vào bản chất, mà còn vào hoàn cảnh cụ thể, trong đó bản chất được biểu hiện. Chính vì thế, hiện tượng phong phú hơn bản chất. Ngược lại, bản chất sâu sắc hơn hiện tượng.+ Bản chất là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiện thực khách quan. Còn hiện tượng là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan ấy.Các hiện tượng biểu hiện bản chất không phải dưới dạng y nguyên như bản chất vốn có mà dưới hình thức đã được cải biến, nhiều khi xuyên tạc nội dung thực sự của bản chất. Ví dụ: Nhúng một phần cái thước vào chậu nước, ta thấy cái thước gấp khúc, trong khi thực tế cái thước vẫn thẳng.– Bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm. Còn hiện tượng không ổn định, nó luôn luôn trôi qua, biến đổi nhanh hơn so với bản chất.Có tình hình đó là do nội dung của hiện tượng được quyết định không chỉ bởi bản chất của sự vật, mà còn bởi những điều kiện tồn tại bên ngoài của nó, bởi tác động qua lại của nó với các sự vật xung quanh.Các điều kiện tồn tại bên ngoài đó và sự tác động qua lại của sự vật này với sự vật khác lại thường xuyên biến đổi. Vì vậy, hiện tượng thường xuyên biến đổi, trong khi bản chất vẫn giữa nguyên.Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là bản chất luôn giữ nguyên như cũ từ lúc ra đời cho đến lúc mất đi. Mà bản chất cũng biến đổi, nhưng là biến đổi rất chậm so với hiện tượng.
Các câu hỏi về hiện tượng theo nghĩa triết học là gì
Nếu có bắt kỳ câu hỏi thắc mắt nào vê hiện tượng theo nghĩa triết
học là gì hãy cho chúng mình biết nhé, mõi thắt mắt hay góp ý của
các bạn sẽ giúp mình cải thiện hơn trong các bài sau nhéhiện tượng là gì 2r9enrq3rta -site:youtube.com ví dụ về bản chất và hiện tượng bancaht hiện tượng là pallet là một trong những nhà triết học duy vật tiêu biểu của hình thức nào bản chất và hiện tượng mối quan hệ là gì q là tập hợp gì triết học là gì gạt bỏ các hiện tượng ngẫu nhiên, bề ngoài, chỉ giữ lại những mối liên hệ phổ biến mang tính bản chất là phương pháp nghiên cứu gì? thuận mua vừa bán là bản chất gì liên hệ thực tiễn bản chất và hiện tượng bản chất của sự việc là gì ví dụ mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng vận dụng mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở nước ta hiện nay