Bài viết Giữ lửa nghề làm giấy bản thuộc chủ đề về
Thắc Mắt thời gian
này đang được rất nhiều bạn quan tâm đúng không nào !! Hôm nay, Hãy
cùng Khoa Lịch Sử tìm hiểu
Giữ lửa nghề làm giấy bản trong bài viết hôm nay nhé ! Các bạn đang
xem chủ đề về : “Giữ lửa nghề làm giấy
bản”
Đánh giá về Giữ lửa nghề làm giấy bản
Xem nhanh
Giấy bản thường được sử dụng trong các dịp cầu an, lễ, Tết. Giấy bản có màu vàng nhạt, dai và bền, thường dùng để cắt giấy tiền, vàng hương trong tục thờ cúng, dùng để viết chữ Nho, chữ Hán, bởi giấy dai và thấm mực nên chữ viết không bao giờ phai.
Người Dao Đỏ ở Yên Lạc làm giấy bản từ cây trúc non, trải qua nhiều công đoạn khá công phu. Từ tháng 3 đến tháng 4 âm lịch, người dân thu hoạch cây trúc non, loại bỏ cành, lá, chẻ đôi và cắt thành từng đoạn ngâm xuống nước vôi từ 1 - 2 tháng, vớt ra rửa sạch rồi lại ngâm tiếp 1 - 2 tháng. Sau đó, vớt trúc lên, đập dập, cho vào cối giã và cho xuống bể lớn đựng sẵn nước cây “chề kêu” (tiếng địa phương), khi khuấy đều sẽ được một loại dung dịch sóng sánh màu vàng nhạt. Dùng khuôn tráng giấy làm bằng vải nhúng xuống bể, lắc đều để dung dịch này trải đều trên khuôn vải sẽ được tấm giấy bản ướt. Cuối cùng, bóc tấm giấy bản ướt ra phơi khô trên tấm cót hoặc vắt lên sào để giấy bản khô.
Chị Triệu Mùi Chướng, xóm Lũng Súng, xã Yên Lạc được bố mẹ dạy làm giấy bản từ khi còn nhỏ, hiện vẫn duy trì làm nghề hơn 10 năm, chia sẻ: Làm giấy bản không quá khó nhưng đòi hỏi nhiều công sức, ngày nào cũng phải xem nước ngâm cây có đủ hay không. Để có những tờ giấy bản vuông vắn, phải xếp các tấm giấy thành lớp khoảng 15 - 20 tờ, khổ rộng 25 x 80 cm. Giấy bản đẹp phải mỏng, có sắc vàng, độ xốp cao, dai mịn, soi ra ngoài ánh nắng thấy rõ những sợi tơ và có hương thơm của cây rừng.
Cây trúc sào là một trong những hướng phát triển kinh tế góp phần tăng thu nhập, giảm nghèo của người dân tại xã Yên Lạc. Nhận thấy nghề làm giấy bản truyền thống có tiềm năng phát triển, góp phần bảo tồn, lưu giữ văn hóa dân tộc, nhiều năm trở lại đây, chính quyền xã Yên Lạc tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân duy trì và phát triển nghề, tận dụng sản phẩm trúc sẵn có nhằm góp phần tăng thu nhập cho nhân dân, nhất là mùa nông nhàn. Hiện, xã Yên Lạc có gần 100 hộ ở 4/5 xóm làm giấy bản, gồm: Lũng Súng, Tàn Pà, Lũng Ót, Tà Cáp. Nhiều hộ có thu nhập từ 10 - 30 triệu đồng/năm từ làm giấy bản, góp phần ổn định cuộc sống.
Nghề làm giấy bản của người Dao Đỏ xã Yên Lạc thường diễn ra mùa nông nhàn. Dù làm giấy bản phải có thời gian, sức khỏe và sự tỉ mỉ nhưng mỗi người Dao sinh ra và lớn lên ở Yên Lạc luôn tự hào khi các thế hệ trong gia đình vẫn hằng ngày cần mẫn lưu giữ nghề truyền thống của cha ông để lại theo cách riêng của họ.
Để bảo tồn, phát triển nghề làm giấy bản truyền thống từ cây trúc sào của người Dao Đỏ, chính quyền địa phương cần tính đến việc phát triển thành làng nghề gắn với phát triển du lịch; tập trung nâng cao tay nghề cho người lao động cũng như quảng bá, tìm kiếm thị trường để sản phẩm của người dân có đầu ra ổn định. Có như vậy, nghề làm giấy bản nói riêng và các nghề truyền thống của nhân dân nói chung mới phát triển bền vững, góp phần gìn giữ, bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc độc đáo.

Vỏ cây dưỡng được tách sau đó phơi khô.
Nếu có dịp đến xóm Dìa Trên (xã Quốc Dân, huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng) người ta sẽ được chứng kiến nghề làm giấy bản của người Nùng ở đây khá phát triển. Ở đây, nghề làm giấy bản chủ yếu do phụ nữ làm, có khả năng bởi đòi hỏi sự cần cù, tỉ mỉ, cũng có thể do tranh thủ lúc nông nhàn.
Còn khi đến với xóm Lũng Quang (thị trấn Thông Nông, huyện Thông Nông, Cao Bằng) đơn giản nhận ra nghề làm giấy bản vẫn được duy trì và vượt qua những điều kiện đề tồn tại. Theo chia sẻ của bà con người Tày nơi đây, thì lý do chính để bà con làm giấy bản vì địa phương thiếu nước, ít ruộng nên canh tác nông nghiệp khó khăn hơn so với nơi khác. Bà con cũng cho biết, trước đây, nghề làm giấy bản đã đứng trước nguy cơ thất truyền, nhưng bằng sự chung tay chung sức của nhiều người, đến nay nghề làm giấy bản đã hồi sinh.
một trong số những bước ngoặt có tính đột phá, đó là vào năm 2012 – 2013, nhận thấy nguy cơ mai một nghề truyền thống làm giấy bản ở Lũng Quang, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Cao Bằng đã đầu tư hỗ trợ xóm bảo tồn và phát triển nghề truyền thống với số tiền 70 triệu đồng cho các hộ nghèo tại xóm; trong đó, mỗi hộ được 10 triệu đồng để xây lò dán khô, bể múc làm giấy. Cùng với sự cố gắng, kiên trì “giữ lửa” của bà con nên nghề giấy bản Lũng Quang đã từng bước vươn lên, mang lại cuộc sống ấm no cho bà con…
Theo bà Sầm Thị Ý- một người có tới hơn 20 năm làm nghề giấy bản ở Lũng Quang, trước đây khi giấy bản làm ra không được nhiều người mua nên gia đình bà không làm một thời gian, chỉ trông chờ vào ruộng nương, cuộc sống rất khó khăn. Từ ngày được hỗ trợ làm bể và xây lò dán giấy, gia đình bà tiếp tục làm giấy, đời sống bớt khó khăn hơn, bà nuôi được 2 con ăn học.
Đối với bà con vùng cao, giấy bản được sử dụng chủ yếu cho cuộc sống tâm linh, thường được dùng vào dịp cúng lễ, nhất là dịp Tết hằng năm. Giấy bản có màu vàng nhạt, dai, thoang thoảng mùi thơm. Ngoài sử dụng để cắt giấy tiền, vàng hương, giấy bản còn dùng để dán bàn thờ, trang trí trong nhà, dùng để viết chữ Nho, chữ Hán, bởi giấy dai và thấm mực, chữ viết trên giấy bản không phai.

Giấy bản Lũng Quang có màu vàng nhạt.
Giống như cách người Nùng làm giấy bản ở xóm Dìa Trên, người Tày ở xóm Lũng Quang cũng được nguyên liệu chính để làm giấy bản là vỏ cây dưỡng (tiếng Tày là mạy sla), thường mọc một cách tự nhiên trên đồi, núi cao. Vào tháng 2, 3, 6, 7 bà con thường đi bóc vỏ vì thời vị trí này cây dễ bóc vỏ nhất. Sau khi bóc lấy phần vỏ, bà con mang về nhà lại tước vỏ đen một lần nữa, đem ngâm vôi trong khoảng 12 tiếng. Chưa hết, quá trình để ra được một tờ giấy bản còn trải qua rất nhiều công đoạn khác nữa. Sau khi ngâm vôi, phần vỏ này được rửa qua nước rồi đun lên khoảng 3 tiếng, sau đó ngâm nước khoảng 2 ngày. Tiếp đó, thanh niên trẻ khỏe dùng gậy đập cho thật nát rồi đem xuống bể khuấy đều đặn sẽ được một loại nước màu vàng nhạt, đặc sánh, trong quy trình khuấy đem trộn cùng cây dây trơn lấy trên rừng nhằm làm cho giấy khi vào khuôn không bị dính, tạo thành một sản phẩm giấy ở dạng ướt. Giấy được ép nước và rải lên 2 mặt lò được đun lửa nhỏ đủ nhiệt độ khoảng gần 1 tiếng giấy sẽ khô, cuối cùng sẽ được một danh mục giấy bản có màu vàng nhạt, có độ mỏng vừa phải và dai. Trung bình một mẻ giấy bản tốn khoảng 30 – 40 kg nguyên liệu, làm ra được từ 400 – 500 tờ giấy bản.
Với cách làm thủ công truyền thống, giấy bản của người Tày, người Nùng để được rất lâu, nếu bảo quản tốt giấy bản có khả năng để được vài chục năm. Vì vậy, đồng bào dân tộc rất ưa thích và nó phù hợp trong các nghi lễ truyền thống của dân tộc. Vì vậy, giấy bản còn mang tổng giá trị tôn nghiêm trong các phong tục văn hoá, tín ngưỡng của đồng bào dân tộc.
Một điều đáng mừng là đến nay, giấy bản do bà con dân tộc Tày, Nùng làm ra không những đáp ứng mong muốn trong tỉnh Cao Bằng mà đã được mở rộng ra một vài địa phương khác thông qua các thương lái làm trung gian.
Các câu hỏi về giấy bản là gì
Nếu có bắt kỳ câu hỏi thắc mắt nào vê giấy bản là gì hãy cho chúng mình biết nhé, mõi thắt mắt hay góp ý của các bạn sẽ giúp mình cải thiện hơn trong các bài sau nhé