Bài viết Vai trò, ý nghĩa của Thuế với nguồn thu ngân sách nhà nước và sự điều chỉnh cúa – Tài liệu text thuộc chủ đề về Thắc Mắt thời gian này đang được rất nhiều bạn quan tâm đúng không nào !! Hôm nay, Hãy cùng https://khoalichsu.edu.vn/hoi-dap/ tìm hiểu Vai trò, ý nghĩa của Thuế với nguồn thu ngân sách nhà nước và sự điều chỉnh cúa – Tài liệu text trong bài viết hôm nay nhé ! Các bạn đang xem bài viết : “Vai trò, ý nghĩa của Thuế với nguồn thu ngân sách nhà nước và sự điều chỉnh cúa – Tài liệu text”
Xem thêm :- Ý nghĩa của công tác văn thư lưu trữ trong các cơ quan, nhà nước
- Vai trò, ý nghĩa của Thuế với nguồn thu ngân sách nhà nước và sự điều chỉnh cúa – Tài liệu text
- Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý hành chính nhà nước
- Cổ phần hóa là gì? Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là gì?
- Vai trò, ý nghĩa của Thuế với nguồn thu ngân sách nhà nước và sự điều chỉnh cúa – Tài liệu text
- Nguyên nhân và cách xử lý nước ăn chân mùa mưa hiệu quả
Đánh giá về Vai trò, ý nghĩa của Thuế với nguồn thu ngân sách nhà nước và sự điều chỉnh cúa – Tài liệu text
Xem nhanh
------------------------------------------
Đừng bị dụ dỗ bởi những lời đường mật về kiếm tiền trên Forex, nếu không biết gì về Forex tham gia thì bạn sẽ chỉ mất sạch tiền thôi. Hãy tìm hiểu kỹ trước khi quyết định bỏ tiền ra các bạn nhé:
Youtube: https://ytb.me/forexchannel
Website: https://ytb.me/forexweb
---------------------------------------------------------------------------------------
Donate cho KTTV:
Techcombank: 19035547651013
CTK: VU HOANG DUONG (chi nhánh Hoàng Gia - HN)
Momo: 0396.140.774 (PHAM THI THU HUONG)
Cổng Donate: https://playerduo.com/kttvofficial
♥ Link Khóa học Tâm lý, Tiếng Anh, Thuyết Trình, ... : https://bitly.vn/E6GwL
♥ Mua sản phẩm ủng hộ KTTV: https://bitly.vn/bNC8I
♦ Group trên Facebook: https://bitly.vn/oQrDk
♣ Page Facebook: hhttps://bitly.vn/KHYwx
Cảm ơn bạn đã ủng hộ! ♥
#KienThucThuVi
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.38 KB, 25 trang )
Họ và tên: Đoàn Thảo NguyênLớp: K55- LKDMSV: 10066058Nhóm: 06BÀI TẬP TÀI CHÍNH CÔNGĐề bài: Vai trò, ý nghĩa của Thuế với nguồn thu ngân sách nhà nướcvà sự điều chỉnh cúa pháp luật về thuế để nhằm điều hòa lợi ích của nhànước và các chủ thể khác.Bài làm:A- ĐẶT VẤN ĐÊNgân sách nhà nước là một phạm trù kinh tế thuộc lĩnh vực tàichính. Hiện tượng ngân sách nhà nước- với tính cách là một hiện tượng tàichính đã ra đời và tồn tại từ rất lâu trong lịch sử, trên nền của kinh tế hànghóa- tiền tệ và sự hình thành, phát triển của Nhà nước. Bởi vì, bất kỳ mộtNhà nước nào cũng cần phải có các nguồn tài chính phục vụ cho mong muốn chitiêu, nhằm duy trì sự tồn tại của Bộ máy nhà nước và thực hiện các chứcnăng, nhiệm vụ của nó. Ngân sách đã luôn luôn được sử dụng để huy độngnguồn tài chính phục vụ cho những nhu cầu chi tiêu đó của Nhà nước.Trong xã hôi có nhà nước, điều mang tính quy luật là Nhànước phải tham gia vào quá trình phân phối danh mục xã hội và thu nhậpquốc dân được sáng tạo ra từ bản thân nền kinh tế. Mục đích của việc thamgia phân phối của Nhà nước là nhằm thu về tay mình những nguồn của cảiđể đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, trước hết là để duy trì sự tồn tạicủa bộ máy Nhà nước, sau nữa là để thực hiện các chức năng kinh tế- xã hộimà Nhà nước đảm nhiệm. Ngân sách Nhà nước là một cách thức, một côngcụ để Nhà nước tham gia (thực hiện) quá trình phân phối đó. Vì vậy, thungân sách nhà nước là một loại hoạt động Nhà nước, hoạt động của một tổchức quyền lực công, luôn gắn với yếu tố quyền lực chính trị của Nhà nước.Từ dó có khả năng hiểu “Thu ngân sách Nhà nước là việc Nhà nước sử dụng quyềnlực của mình để tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành Quỹngân sách Nhà nước nhằm thỏa mãn các mong muốn của Nhà nước”. Thu ngân
sách Nhà nước là một vận hành rất quan trọng của Nhà nước, tạo ra thunhập tài chính của Nhà nước và đáp ứng mong muốn chi tiêu của Nhà nước.Thu ngân sách Nhà nước là hoạt động mang nội dung kinh tế, vì các mụctiêu kinh tế trực tiếp, nhưng luôn hàm chứa yếu tố quyền lực chính trị vàkhông tách rời yếu tố Nhà nước, pháp quyền và các mục tiêu chính trị củaNhà nước.Các khoản thu Ngân sách Nhà nước là những cách thức cụthể của thu ngân sách Nhà nước. Thông qua các khoản thu này mà những bộphận thu nhập của dân cư, những tổng giá trị sản phẩm xã hội được tập trung vàotay Nhà nước dưới những nguyên tắc, nội dung và hình thức khác nhéu,nhưng đều đặn nhằm hình thành Quỹ ngân sách Nhà nước để đáp ứng nhu cầuchi tiêu của Nhà nước. Đồng thời cũng thông qua các khoản thu này, Nhànước thực hiện việc điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế, hướng dẫn sản xuất,tiêu dung và điều tiết thu nhập trong xã hội. Trong cơ cấu các khoản thungân sách Nhà nước, thuế là khoản thu quan trọng nhất, chiếm khoảng 15%so với GDP và khoảng gần 90% tổng số thu ngân sách nhà nước.B- THUẾ VÀ PHÁP LUẬT VỀ THUẾI- THUẾ1- Khái niệmThuế là một phạm trù kinh tế, thuế xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhànước, là công cụ để Nhà nước thể hiện quyền lực chính trị của mình trongviệc tham gia vào quá trình phân phối giá trị danh mục xã hội, nhằm hìnhthành các nguồn của cải hay quỹ tiền tệ của Nhà nước, thỏa mãn những nhucầu chi tiêu của Nhà nước. Thông qua thuế hay nói chính xác hơn là thôngqua pháp luật thuế, Nhà nước buộc các thành viên trong xã hội phải thựchiện các nghĩa vụ đóng góp về mặt tài chính cho Nhà nước. Mọi kiểu Nhànước trong lịch sử từ cổ đại đến hiện đại đều đặn đặc biệt quan trọng và nguồnthu từ thuế trở thành nguồn thu chủ yếu của mọi Nhà nước.tuy nhiên, xét về bản chất, thuế là một phạm trù kinh tế, là hệ thống cácquan hệ phân phối dưới hình thức giá trị giữa Nhà nước và các chủ thể kháctrong xã hội. Và suy cho cùng thì thuế là sản phẩm thặng dư được sáng tạora trong xã hội. Như vậy, thuế là phạm trù có tính lịch sử và là một tất yếukhách quan, thuế ra đời xuất phát từ nhu cầu đáp ứng chức năng của Nhànước và sự tồn tại của thuế không tách rời quyền lực Nhà nước.2- Các đặc trưng của thuế2.1. Thuế do cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ban hành.Ở các quốc gia, do vai trò quan trọng của thuế đối với việc hình thànhqũy ngân sách Nhà nước và những ảnh hưởng của nó đối với cuộc sống kinhtế – xã hội nên thẩm quyền quy định, sửa đổi, bãi bỏ các Luật thuế đều đặn thuộccơ quan lập pháp. Ðây là nguyên tắc sớm được ghi nhận trong pháp luật củacác nước. Chẳng hạn ở nước Anh đạo Luật về dân quyền năm 1688 quyđịnh: cấm mọi sự thu thuế để sử dụng vào việc chi tiêu của Nhà nước nếukhông được Quốc hội chấp thuận. Ở Pháp, Quốc hội Pháp quy định: bất cứmột khoản thuế nào nếu không được Quốc hội chấp thuận thì không được ápdụng. Hiến pháp của nước Cộng hòa Pháp năm 1791 quy định Quốc hộiPháp có quyền biểu quyết và định đoạt các Luật thuế.Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: Quốc hộicó nhiệm vụ và quyền hạn quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các Luật thuế. Tuyvậy, do yêu cầu điều chỉnh các quan hệ pháp luật về thuế, Quốc hội có khả nănggiao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ một vàiloại thuế thông qua cách thức ban hành Pháp lệnh hoặc Nghị quyết về thuế.· 2.2. Thuế là khoản nộp mang tính nghĩa vụ yêu cầu của các phápnhân và thể nhân đối với Nhà nước không mang tính đối giá hoàn trảtrực tiếp.Thuế là nghĩa vụ thanh toán mà các thể nhân và pháp nhân khi có các dấuhiệu và điều kiện được quy định chi tiết trong Luật thuế thì phải thực hiện đốivới Nhà nước và được đảm bảo thực hiện bằng sự cưỡng chế của Nhà nước.· 2.3. Thuế là công cụ phản ánh quan hệ phân phối lại của cải vật chấtdưới cách thức giá trị giữa Nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội.Nhà nước thu thuế làm sinh ra quan hệ phân phối giữa Nhànước với các thể nhân và pháp nhân trong xã hội. Ðối tượng của quan hệphân phối này là của cải vật chất được biểu hiện dưới hình thức tổng giá trị. Sựtồn tại và phát triển của Nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử, đặc điểm củaphương thức sản xuất, kết cấu giai cấp là những nhân tố chủ yếu ảnh hưởngđến vai trò, nội dung, đặc điểm của thuế. Vì vậy, cơ cấu và nội dung của cảhệ thống pháp luật thuế và từng Luật thuế phải được thống kê, sửa đổi bổsung, cải tiến và đổi mới kịp thời nhằm thích hợp với tình hình, nhiệm vụcủa từng giai đoạn. Ðồng thời phải tổ chức bộ máy phù hợp, đủ sức đảm bảothực hiện các quy định pháp luật về thuế đã được Nhà nước ban hành trongtừng thời kỳ.Hệ thống pháp luật thuế được coi là phù hợp không những nhìn mộtcách phiến diện vào số lượng các Luật thuế thường xuyên hay ít, vào mục tiêu đơnthuần là động viên tài chính vào ngân sách Nhà nước mà phải được phântích một cách toàn diện, chặt chẽ với bắt buộc phát triển kinh tế, với đời sốngxã hội, không đối lập với quyền lợi và có khả năng đóng góp của nhân dân.Ở nước ta trước cải cách chế độ thu ngân sách Nhà nước, Luật thuếchỉ áp dụng đối với các cơ sở sản xuất, buôn bán thuộc thành phần kinh tếtập thể và cá thể. Ðể thực hiện chế độ thu ngân sách Nhà nước phù hợp vớicơ chế thị trường, phát huy vai trò của các cách thức thu ngân sách Nhànước, cuộc cải cách chế độ thu ngân sách Nhà nước được thực hiện trên cơsở Nghị quyết Quốc hội khóa VIII kỳ họp thứ IV năm 1989. Kết qủa củacuộc cải cách này đưa đến việc áp dụng thống nhất chế độ thu thuế đối vớitất cả các thành phần kinh tế, không phân biệt hình thức sở hữu, cách thứckinh doanh. Từ đây thuế thực sự trở thành nguồn thu chủ yếu của ngân sáchNhà nước và thuế chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu nguồn thu ngân sách Nhànước.Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân cónghĩa vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các vănbản pháp luật do Nhà nước ban hành, không mang tính chất đối giá vàhoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế. Thuế không phải là một hiệntượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã hội do chính con người định ravà nó gắn liền với phạm trù Nhà nước và pháp luật.3- Phân loại thuếTrong hệ thống thuế mà Nhà nước dùng để tạo nguồn thu vàđiều tiết thu nhập có nhiều loại thuế khác nhéu. Mỗi loại thuế, ngoài mụctiêu Mỗi loại thuế, ngoài mục tiêu tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nướccòn có những mục tiêu điều tiết khác nhau, cơ sở tính thuế và mức độ nộpthuế cũng khác nhéu. Việc phân loại thuế thường được thực hiện theo cáccách sau đây:3.1. Phân loại theo phương thức đánh thuế: Người ta chia thành thuếtrực thu và thuế gián thu:- Thuế trực thu: là loại thuế đánh trực tiếp vào mức thu nhập của ngườinộp thuế (tức là người thực hiện hành vi nộp thuế).Mục đích của Nhà nước áp dụng loại thuế này là điều tiết, động viên trựctiếp vào mức lương của những người (tổ chức, cá nhân) có mức thu nhập. Do vậy,người nôp thuế cũng chính là người chịu thuế. Hay nói cách khác, ngườithực hiện hành vi nộp thuế phải trích một phần từ chính mức thu nhập của mìnhđể nộp cho Nhà nước. Ở nước ta hiện nay, thuộc loại thuế trực thu có thuếthu nhập Doanh nghiệp, thuế đối với người có mức lương cao, thuế dùng đấtnông nghiệp…- Thuế gián thu: là loại thuế không đánh trực tiếp vào thu nhập củangười nộp thuế mà đánh gian tiếp thông qua giá cả hang hóa, dịch vụ.Với phương thức đánh thuế gián tiếp, thuế trở thành một bộ phận cấu thànhtrong giá cả hang hóa, dịch vụ. do vậy, người nộp thuế không đồng thời làngười chịu thuế. Người chịu thuế ở đây là người tiêu dùng hang hóa, dịchvụ, còn người nộp thuế không phải lấy từ mức lương của chính họ để nộp thuếmà họ được cộng thuế vào giá cả hàng hóa, sản phẩm và sau đó được trích rađể nộp cho Nhà nước. Như vậy, cũng có thể nói là người thực hiện hành vinộp thuế chỉ là người nộp thuế thay cho người tiêu sử dụng còn người chịu thuếlà người tiêu sử dụng nộp thuế gián tiếp thông qua người cung cấp hang hóa,sản phẩm. Thuộc loại thuế gián thu có thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặcbiệt, thuế xuất khẩu thuế nhập khẩu…3.2. Phân loại theo đối tượng đánh thuế: Theo cách phân loại này, hệthống thuế được chia làm ba loại:- Thuế thu nhập: Là loại thuế có đối tượng đánh thuế là thunhập có được của các tổ chức và cá nhân. mức lương nay được tạo ra từ nhiềucách thức như từ kinh doanh, từ đầu tư, từ tiền lương và tiền công… Thuộcloại này có thuế mức lương công ty, thuế mức lương đối với người có thunhập cao (thuế thu nhập cá nhân), thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài.- Thuế tiêu dùng: Là loại thuế có đối tượng đánh thuế là hànghóa, sản phẩm được đưa ra tiêu dùng. Do vậy, khi có loại thuế này còn đượcgọi là thuế hang hóa hay thuế bán hàng. Thực chất của thuế tiêu sử dụng là thuvào phần mức lương được đem ra tiêu dùng thông qua việc mua hàng hóa haysản phẩm. Thuộc loại thuế này có thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt,thuế nhập khẩu, thuế xuất khẩu.- Thuế tài sản: Là loại thuế có đối tượng đánh thuế là tài sản(hay tổng giá trị tài sản) do dùng hay mua bán, chuyển nhượng, đăng ký quyềnsở hữu tài sản…II- PHÁP LUẬT VỀ THUẾ1- Khái niệmThuế là một chính sách lớn của Nhà nước, có liên quan trựctiếp đến sự tồn vong của Nhà nước, nhưng chính sách thuế bản than nókhông thể tự đi vào cuộc sống mà phải thông qua một công cụ mang sứcmạnh cưỡng chế của Nhà nước. ngoài ra, việc nộp thuế cũng tác độngtrực tiếp đến lợi ích kinh tế của các tổ chức và cá nhân trong xã hội, do vậy,không dễ gì họ tự nguyện thực hiện hành vi này nếu Nhà nước không chếđịnh nó như một nghĩa vụ pháp lý yêu cầu. Vì vậy, một bắt buộc được đặt ralà thuế phải được luật hóa. Các sắc thuế của Nhà nước cần phải được banhành dưới cách thức các văn bản quy phạm pháp luật, và phải là văn bản cógiá trị pháp lý cao nhất, đó là các luật thuế. Việc ban hành các đạo luật thuếcó ý nghĩa là xác định việc nộp thuế là một nghĩa vụ pháp lý yêu cầu củacác tổ chức kinh tế và mọi người dân. Như vậy, khái niệm pháp luật thuếđược hiểu như sau:Pháp luật thuế là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnhcác quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực thuế, bao gồm các quy phạmquy định về nội dung của các sắc thuế và các quy phạm điều chỉnh cácquan hệ trong việc thu thuế, nộp thuế vào ngân sách Nhà nước.2- Nội dung của pháp luật thuế2.1. Thuế giá trị gia tăng2.1.1- Khái niệm thuế tổng giá trị gia tăngTại điều 1 Luật thuế giá trị gia tăng đã định nghĩa: “ Thuế giá trịgia tăng là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phátsinh trong quy trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu sử dụng”.2.1.2. Phạm vi áp dụng của luật thuế giá trị gia tăngĐối tượng chịu thuế giá trị gia tăngTheo điều 2 Luật thuế tổng giá trị gia tăng quy định đối tượng chịuthuế tổng giá trị gia tăng là “hàng hóa, sản phẩm dùng cho sản xuất, kinh doanh vàtiêu sử dụng ở Việt Nam”.Như vậy toàn bộ hàng hóa, dịch vụ được mua bán, tiêu sử dụngtrên thị trường, bao gồm: hàng hóa, sản phẩm được sản xuát và tiêu sử dụng trongnước; hàng hóa, sản phẩm được nhập khẩu để tiêu dùng trong nước, trừ 26 loạihàng hóa và sản phẩm được quy định tại điều 5, Luật thuế tổng giá trị gia tăng ngày3/66/2008, có thể xếp thành 5 nhóm sau:- Các sản phẩm, sản phẩm của một vài ngành, lĩnh vực mà vận hànhsản xuất buôn bán của các ngành này còn gặp thường xuyên khó khăn,cần có sự nâng đỡ của Nhà nước để khuyến khích phát triển như:danh mục trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản nuôi trồng, đánh bắtchưa chế biến thành các danh mục khác hoặc chỉ qua sơ chếthông thường của tổ chức, cá nhân tự sản xuất, đánh bắt bán ravà ở khâu nhập khẩu; thiết bị, máy móc, phương tiện vận tảichuyên sử dụng nằm trong dây chuyền công nghệ và vật tư xâydựng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu đểtạo của cải/tài sản cố định của công ty; sản phẩm tín dụng và quỹđầu tư như vận hành cho vay, cho thuê tài chính, chuyểnnhượng vốn, kinh doanh chứng khoán…- Nhóm các danh mục và dịch vụ không mang tính kinh doanh,hoặc các sản phẩm công cộng bảo đảm cung cấp các dịch vụ tốithiểu cho việc tiêu dùng như: Bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểmngười học, bảo hiểm vật nuôi, bảo hiểm cây trồng và tái bảohiểm; dịch vụ khám chữa bệnh, phòng dịch bệnh điều dưỡng,sản phẩm thú; . dịch vụ bưu chính, viễn thông công ích và In-ter-net phổ cập theo chương trình của Chính phủ; sản phẩm phục vụcông cộng về vệ sinh, thoát nước đường phố và khu dân cư; duy trìvườn thú, vườn hoa, công viên, cây xanh đường phố, chiếu sángcông cộng; sản phẩm tang lễ; . Duy tu, sửa chữa, xây dựng bằngnguồn vốn đóng góp của nhân dân, vốn viện trợ nhân đạo đốivới các công trình văn hóa, nghệ thuật, công trình phục vụ côngcộng, cơ sở hạ tầng và nhà ở cho đối tượng chính sách xã hội;Xuất bản, nhập khẩu, phát hành báo, tạp chí, bản tin chuyênngành, sách chính trị, sách giáo khoa, giáo trình, sách văn bảnpháp luật, sách khoa học – kỹ thuật, sách in bằng chữ dân tộcthiểu số và tranh, ảnh, áp phích tuyên truyền cổ động, kể cả dướidạng băng hoặc đĩa ghi tiếng, ghi hình, dữ liệu điện tử; in tiền….- Hàng hóa nhập khẩu trong các trường hợp viện trợ nhân đạo, viện trợkhông hoàn lại; quà tặng cho các bộ phận Nhà nước, tổ chức chínhtrị- xã hội; quà biếu, quà tặng cho cá nhân trong tiêu chuẩn quy định;hàng mang theo người theo tiêu chuẩn hành lý miễn thuế.- Các hàng hóa chuyển khẩu, quá cảnh mượn đường qua Việt Nam;hàng tạm xuất khẩu, tái nhập khẩu; nguyên liệu nhập khẩu để sảnxuất, gia công hàng hoá xuất khẩu theo hợp đồng sản xuất, giacông xuất khẩu ký kết với bên nước ngoài; hàng hoá, dịch vụđược mua bán giữa nước ngoài với các khu phi thuế quan vàgiữa các khu phi thuế quan với nhéu.- Hàng hóa, dịch vụ của những cá nhân kinh doanh có mức thunhập bình quân tháng thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nướcquy định.Đối tượng nộp thuế: là các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinhdoanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tổng giá trị gia tăng ở Việt Nam, khôngphân biệt ngành nghề, hình thức tổ chức kinh doanh và các tổ chức, cánhân khác có nhập khẩu hàng hóa chịu thuế tổng giá trị gia tăng.2.1.3. Đăng ký, kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế.Việc đăng ký, kê khai, nộp thuế giá trị gia tăng là nghĩa vụ pháp lý bắtbuộc đối với các tổ chức, cá nhân có đối tượng chịu thuế là hàng hóa,sản phẩm theo những khó khăn luật định. Pháp luật thuế giá trị gia tăngquy định cụ thể về các giấy tờ kê khai và nộp thuế, thể hiện kỷ luật thunộp rất nghiêm ngặt, kèm theo các chế tài hành chính, phạt vật chất vànghiêm trọng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.a) Về việc đăng ký nộp thuế- Cơ sở kinh doanh phải đăng ký nộp thuế giá trị gia tăng với cơ quanthuế trực tiếp quản lý theo hướng dẫn của cơ quan thuế. Đối với cơ sởkinh doanh mới thành lập, thời gian đăng ký nộp thuế giá trị gia tăngchậm nhất là 10 ngày, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng kýbuôn bán.b) Về việc kê khaiCơ sở buôn bán phải kê khai thuế giá trị gia tăng từng tháng và nộp tờkhai thuế cho cơ quan thuế trong 10 ngày đầu của tháng tiếp theo. Đốivới cơ sở nhập khẩu hàng hóa phải kê khai và nộp tờ khai thuế giá trịgia tăng theo từng lần nhập khẩu cùng với việc kê khai thuế nhập khẩu.c) Về việc nộp thuếThuế tổng giá trị gia tăng được nộp vào ngân sách nhà nước. Thời hạn nộpthuế của tháng được ghi trong thông báo chậm nhất không quá ngày 25của tháng tiếp theo.d) Về việc quyết toán thuếViệc quyết toán thuế được thực hiện hàng năm, tính theo năm dươnglịch. Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày kết thúc năm, cơ sở kinh doanhphải nộp báo cáo quyết toán thuế cho cơ quan thuế.2.1.4- Vai trò, ý nghĩa của thuế giá trị gia tăng với ngân sách nhànướcQua quy định của Luật về đối tượng chịu thuế và đối tượngnộp thuế trên đây cho thấy, Luật thuế giá trị gia tăng là sắc thuế cóphạm vi điều chỉnh rộng nhất trong tất cả các Luật thuế hiện hành củaNhà nước ta. Thuế giá trị gia tăng động viên sự đóng góp của tất cả mọingười dân thông qua hành vi tiêu dùng của họ; người thực hiện hành vinộp thuế là tất cả các tổ chức, cá nhân sản xuất, buôn bán; còn đốitượng chịu thuế là mọi loại sản phẩm hàng hóa, sản phẩm được mua bán,tiêu thụ trên thị trường được sản xuất trong nước hay nhập khẩu, trừmột số hàng hóa, sản phẩm nhất định. Với phạm vi điều chỉnh rộng nhưvậy, thuê giá trị gia tăng Hiện tại là một trong những sắc thuế quantrọng trong hệ thống thuế của Nhà nước ta và tương đương thuế doanh thutrước đây, thuế tổng giá trị gia tăng luôn có tỷ trọng cao trong cơ cấu thu củangân sách Nhà nước. Thuế GTGT là nguồn thu lớn và quan trọngcủa Ngân sách nhà nước. ỞViệt Nam, thuế GTGT Hiện tại chiếm tỷtrọng ổn định khoảng 20-25% trong tổng thu từ thuế, phí và lệ phí.2.2. Thuế tiêu thụ đặc biệt2.2.1- Khái niệmThuế tiêu thụ đặc biệt là một loại thuế gián thu hay nói cách khác làmột loại thuế tiêu sử dụng đánh vào một vài hàng hóa, dịch vụ đặc biệt theosản phẩm quy định của Luật. Do vậy, thuế tiêu thụ đặc biệt là một bộ phậncấu thành giá cả hàng hóa và do người tiêu sử dụng chịu.2.2.2- Phạm vi áp dụng của Luật thuế tiêu thụ đặc biệtĐối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệtTheo luật thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành có 8 nhóm hàng hóa và4 nhóm sản phẩm chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, gồm:1. Hàng hóa:a) Thuốc lá điếu, xì gà và chế phẩm khác từ cây thuốc lá dùng để hút,hít, nhai, ngửi, ngậm;b) Rượu;c) Bia;d) Xe ô tô dưới 24 chỗ, kể cả xe ô tô vừa chở người, vừa chở hàngloại có từ hai hàng ghế trở lên, có thiết kế vách ngăn cố định giữa khoangchở người và khoang chở hàng;đ) Xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh có dung tích xi lanh trên125cm3;e) Tàu bay, du thuyền;g) Xăng các loại, nap-ta (naphtha), chế phẩm tái hợp (reformadecomponent) và các chế phẩm khác để pha chế xăng;h) Điều hoà nhiệt độ công suất từ 90.000 BTU trở xuống;i) Bài lá;k) Vàng mã, hàng mã.2. sản phẩm:a) buôn bán vũ trường;b) kinh doanh mát-xa (massage), ka-ra-ô-kê (karaoke);c) kinh doanh ca-si-nô (casino); trò chơi điện tử có thưởng bao gồmtrò chơi bằng máy giắc-pót (jackpot), máy sờ-lot (slot) và những loại máytương tự;d) buôn bán đặt cược;đ) buôn bán gôn (golf) bao gồm bán thẻ hội viên, vé chơi gôn;e) buôn bán xổ số.Để khuyến khích xuất khẩu và thực hiện một vài chính sách miễn trừ trongnhập khẩu, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt quy định các hàng hóa thuộc danhmục chịu thuế trên đây, không thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt trongcác trường hợp sau:1. Hàng hóa do cơ sở sản xuất, gia công trực tiếp xuất khẩu hoặc bán,ủy thác cho cơ sở buôn bán khác để xuất khẩu;2. Hàng hóa nhập khẩu bao gồm:a) Hàng viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại; quà tặng cho cơquan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trịxã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, đơn vị vũtrang nhân dân, quà biếu, quà tặng cho cá nhân tại Việt Nam theo mức quyđịnh của Chính phủ;b) Hàng hóa vận chuyển quá cảnh hoặc mượn đường qua cửa khẩu,biên giới Việt Nam, hàng hóa chuyển khẩu theo quy định của Chính phủ;c) Hàng tạm nhập khẩu, tái xuất khẩu và tạm xuất khẩu, tái nhập khẩukhông phải nộp thuế nhập khẩu, thuế xuất khẩu trong thời hạn theo quy địnhcủa pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu;d) Đồ dùng của tổ chức, cá nhân nước ngoài theo tiêu chuẩn miễn trừngoại giao; hàng mang theo người trong tiêu chuẩn hành lý miễn thuế; hàngnhập khẩu để bán miễn thuế theo quy định của pháp luật;3. Tàu bay, du thuyền dùng cho mục đích kinh doanh vận chuyểnhàng hoá, hành khách, khách du lịch;4. Xe ô tô cứu thương; xe ô tô chở phạm nhân; xe ô tô tang lễ; xe ô tôthiết kế vừa có chỗ ngồi, vừa có chỗ đứng chở được từ 24 người trở lên; xe ôtô chạy trong khu vui chơi, giải trí, thể thao không đăng ký lưu hành vàkhông tham gia giao thông;5. Hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài vào khu phi thuế quan, hàng hoátừ nội địa bán vào khu phi thuế quan và chỉ sử dụng trong khu phi thuế quan,hàng hoá được mua bán giữa các khu phi thuế quan với nhau, trừ xe ô tô chởngười dưới 24 chỗ.Đối tượng nộp thuế tiêu thụ đặc biệtĐối tượng nộp thuế tiêu thụ đặc biệt là tổ chức, cá nhân có hoạtđộng sản xuất, nhập khẩu hàng hóa và buôn bán sản phẩm thuộc đối tượng chịuthuế tiêu thụ đặc biệt. Hàng hóa thuộc diện thuế tiêu thụ đặc biệt được sản xuấttrong nước hay nhập khẩu, chỉ phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt một lần ở khâusản xuất hoặc nhập khẩu. Cơ sở sản xuất nộp thuế tiêu thụ đặc biệt ở khâu sảnxuất, cơ sở nhập khẩu nộp thuế ở khâu nhập khẩu.Cơ sở kinh doanh dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặcbiệt phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với sản phẩm chịu thuế tiêu thụ đặc biệtcung ứng cho các đối tượng tiêu sử dụng.2.2.3. Vai trò, ý nghĩa của thuế tiêu thụ đặc biệt với ngân sách NhànướcLuật thuế tiêu thụ đặc biệt thường quy định thuế suất cao,thậm chí rất cao. Điều đó thể hiện mức động viên cao từ việc sản xuất hay tiêudùng đối với những hàng hóa, dịch vụ trong diện chịu thuế. Có nghĩa là Nhànước muốn điều tiết sản xuất, tiêu sử dụng một số hàng hóa, sản phẩm nhất địnhthông qua Luật thuế tiêu thụ đặc biệt. Việc đưa hàng hóa, dịch vụ nào vào diệnchịu thuế tiêu thụ đặc biệt là tùy thuộc vào từng nước và từng thời kỳ dựa trêncác yếu tố kinh tế- xã hội khac nhéu. Ở Việt Nam có những thời kỳ, sản phẩmchịu loại thuế này lên tới hàng chục mặt hàng hay dịch vụ nào là tùy thuộc vàohoạch định sản xuất, tiêu sử dụng của Nhà nước, ví dụ như để khuyến khích hàngnội địa, Giảm nhập khẩu, hay hạn chế việc sản xuất, nhập khẩu hàng hóakhông có lợi cho nền kinh tế; hay cần Giảm tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ nhấtđịnh không có lợi cho tiêu sử dụng hoặc hàng hóa, sản phẩm xa xỉ.Cùng với thuế GTGT, TNDN, thuế TTĐB đóng góp số thu quantrọng cho NSNN. Những năm gần đây, số thu từ thuế TTĐB luôntăng qua các năm và thường chiếm tỷ trọng nhất định trong tổng sốthu từ thuế và phí(tỷ đồng)Nội NămDung2001 2002 2003 2004 2005 2006ThuếTTĐB6,230 7,377 8,954 12,609 12,705 17,478Tỷ trọng(%)6,29 6,41 6,39 7,31 7,71 7,17(Nguồn: Tổng cục thuế)ngoài ra, đối tượng tiêu dùng các hàng hóa, sản phẩm thuộc diện chịuthuế tiêu thụ đặc biệt thường là đối tượng có mức lương cao, do vậy, việc đánhthuế với mức cao cũng nhằm mục đích điều tiết mức lương trong xã hội.2.3- Thuế mức lương công ty2.3.1. Khái niệmTrong lịch sử thuế khóa, từ lâu đã hình thành và tồn tại mộtloại thuế đánh trực tiếp vào mức thu nhập thực tế của tổ chức và cá nhân. Khi một tổchức, hay một cá nhân nào đó có mức lương thì họ phải nộp một phần mức thu nhậpđó cho Nhà nước dưới hình thức thuế thu nhập.Ngày 10/5/1997 Luật thuế thu nhập công ty đã ra đờivà bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/1/1999. Việc ban hành Luật thuế mức lươngcũng chính là nhằm thống nhất các quy định thuế lợi tức trong các luật về đầutư vào trong Luật thuế mức lương Doanh nghiệp, áp dụng chung cho mọi loạihình công ty thuộc mọi loại hình kinh tế.2.3.2. Phạm vi áp dụng của Luật thuế mức thu nhập Doanh nghiệp.Thuế mức lương công ty là các loại thuế trực thu, đánh trực tiếp vào thunhập của các tổ chức và cá nhân có mức thu nhập.- Tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượngnộp thuế mức lương Doanh nghiệp bao gồm: Doanh nghiệp Nhànước; Doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn; Doanh nghiệp cổ phần; công ty hợpdanh; công ty có vốn đầu tư nước ngoài; hợp tác xã; tổ hợptác; tổ chức kinh tế có sản xuất buôn bán hàng hóa, dịch vụ.- Cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa dịch vụ bao gồm: hộ cá thểvà nhóm kinh doanh; hộ gia đình, cá nhân sản xuất nông nghiệp cómức mức lương cao; cá nhân hành nghề độc lập; cá nhân cho thuê tàisản như nhà, đất, phương tiện vận tải, máy móc thiết bị và những loạitài sản khác.- Đối tượng không thuộc diện nộp thuế mức lương Doanh nghiệp baogồm: hộ gia đình, cá nhân, tổ hợp tác, hợp tác xã sản xuất nôngnghiệp có mức lương từ sản phầm trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồngthủy sản có mức mức thu nhập thấp.Đối tượng chịu thuế mức thu nhập công ty là thu nhập chịu thuế có đượctừ hoạt động sản xuất, buôn bán, sản phẩm trong năm tính thuế, bao gồmcả mức thu nhập chịu thuế từ hoạt động sản xuất, buôn bán ở nước ngoài vàmức thu nhập chịu thuế khác.2.4. Thuế mức thu nhập cá nhân.2.4.1. Khái niệmThuế TNCN đã được áp dụng từ rất lâu ở các nước pháttriển. Lần đầu tiên ở Vương quốc Anh, vào năm 1797, khi đó thuếTNCN (Income-tax) được đưa vào thực hiện dưới hình thức khoản thutạm thời nhằm mục đích trang trải cho cuộc chiến chống Napoleon(Pháp) và được hoàn chỉnh, chính thức áp dụng từ năm 1942. Sau đó,thường xuyên nước tư bản phát triển khác cũng chính thức áp dụng loại thuếnày như: Nhật (1887), Mỹ (1913), Pháp (1914)… Thuế mức thu nhập đốivới người có mức lương cao ở nước ta ra đời vào năm 1990 qua hơn mườinăm thực hiện, pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập caonăm 1990 đến nay đã qua 4 lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1994,1997, 1999 và 2001. Để phù hợp với tình hình xã hội tương đương hạn chếtình trạng phân hóa giàu nghèo, luật thuế mức thu nhập cá nhân 2007 đã rađời thay thế cho luật thuế mức thu nhập với người có thu nhập cao. Để hạnchế những bất cập, Giảm của luật thuế mức lương cá nhân 2007, ngày11/11//2011 Bộ Tài Chính đã ra Thông tư hướng dẫn Nghị định số101/2011/NĐ-CP ngày 4/11/2011 của Chính phủ quy định chi tiết thihành Nghị quyết số 08/2011/QH13 của Quốc hội về ban hành bổ sungmột vài giải pháp về thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho công ty vàcá nhân.2.4.2. Đặc điểmThuế TNCN có những đặc điểm cơ bản sau:- Thuế TNCN là một loại thuế trực thu đánh trực tiếp vào mức thu nhậpcủa mỗi cá nhân. Do là thuế trực thu nên nó phản ánh sự đồng nhất giữa đốitượng nộp thuế theo luật và đối tượng chịu thuế theo ý nghĩa kinh tế. Ngườichịu thuế mức thu nhập cá nhân không có khả năng chuyển giao gánh nặng thuếkhoá sang cho các đối tượng khác tại thời điểm đánh thuế.- Thuế TNCN có diện đánh thuế rất rộng, thể hiện trên hai khía cạnh:một là đối tượng đánh thuế TNCN là toàn bộ các khoản mức thu nhập của cánhân thuộc diện đánh thuế không phân biệt mức thu nhập đó có nguồn gốc phátsinh trong nước hay ở nước ngoài; hai là đối tượng phải kê khai nộp thuếTNCN là toàn bộ những người có mức lương, bao gồm tất cả công dân củanước sở tại và những người nước ngoài cư trú nhiều hay khôngthường xuyên nhưng có số ngày có mặt, làm việc, có mức thu nhập theo mức độquy định của pháp luật thuế TNCN.- Thuế TNCN là một loại thuế mức lương nhưng khác với thuế Thunhập công ty ở chỗ nó có tính tất yếu gắn với chính sách xã hội củamỗi quốc gia cho dù quốc gia đó có mục tiêu hoàn thiện chính sách thuế,xây dựng một chính sách thuế có tính trung lập không nhằm thường xuyên mục tiêukhác nhéu. Thể hiện, nó luôn quy định loại trừ một số khoản mức thu nhập trướckhi tính thuế TNCN như mức thu nhập mang tính trợ cấp xã hội, khoản chi cầnthiết cho cuộc sống cá nhân, gia đình người nộp thuế, khoản chi mang tínhnhân đạo xã hội…- Thuế TNCN có góc độ kỹ thuật tính thuế khá phức tạp bởi diện đánhthuế rộng, liên quan chặt chẽ với hoành cảnh cá nhân, chính sách xã hội cụthể, có áp dụng phương pháp luỹ tiến. Có như vậy mới đảm bảo công bằngxã hội, người có mức thu nhập cao hơn thì trước và sau khi nộp thuế họ vẫn cònmột khoản mức lương cao hơn so với người có mức thu nhập thấp khi chưa nộpthuế.2.4.3. Vai trò, ý nghĩa của thuế thu nhậ cá nhân với ngân sách Nhà nướcThuế TNCN ngày càng trở thành nguồn thu quan trọng củangân sách nhà nước. Dù không phải là mục tiêu chủ yếu, song thực hiện pháttriển chính sách thuế trực thu nói chung, thuế TNCN nói riêng chính là làviệc tạo lập và phát triển nguồn thu vững chắc cho ngân sách nhà nước.Cùng với xu hướng tăng trưởng kinh tế ngày càng cao, hội nhập và pháttriển, mức thu nhập quốc dân đầu người ngày càng lớn thì có khả năng kêu gọinguồn thu cho ngân sách nhà nước thông qua thuế TNCN sẽ ngày càng tăngvà sẽ ngày một dồi dào. Thực tế tỷ trọng thu thuế TNCN trong tổng thu ngânsách của nhiều quốc gia đã phản ánh tiến trình đó, tại các nước khốiASEAN: 5-10%, các nước phát triển có tỷ trọng 15-16% có nước đạt tới tỷtrọng 30- 40% như Anh, Mỹ. Tại Việt Nam, mới tiếp cận chính sách thu vàcòn phân tán ở thường xuyên sắc thuế nhưng cũng đã có kết quả tăng trưởng thu khálớn trong những năm gần đây: năm 1991 thu theo chính sách thuế mức thu nhậpđối với người có thu nhập cao là 62 tỷ, thì đến năm 2000 thu được 1.832 tỷvà đến năm 2005 số thu đã đạt 8.300 tỷ. Tuy vậy tỷ trọng thu cũng mới chỉđạt khoảng 5% tổng thu ngân sách.3- Chức năng, vai trò và ý nghĩa của thuế với Ngân sách Nhà nước.3.1 Chức năng của thuế.Chức năng của một sự vật hay một hiện tượng là sự thể hiệntác dụng vốn có của nó. Ðối với một phạm trù kinh tế – xã hội thì chứcnăng phản ánh sự tác động của nó – là một phương thức đặc biệt biểu hiệnnhững thuộc tính vốn có của phạm trù. cũng như bản chất, chức năng cũngcó tính ổn định tương đối của nó trong suốt thời gian tồn tại của sự vật hayđối tượng.Thuế là một phạm trù tài chính, nó biểu hiện những thuộc tính chungvốn có của các quan hệ tài chính. mặc khác thuế cũng có những đặc trưng,hình thức vận động và các chức năng riêng bắt nguồn từ tổng thể các mốiquan hệ tài chính.Căn cứ vào nội dung cùng với qúa trình ra đời, tồn tại và pháttriển của thuế, chúng ta thấy rằng thuế thực hiện các chức năng sau đây:3.1.1. Chức năng phân phối và phân phối lại: là chức năng cơ bản, đặcthù của thuế.Ngay từ lúc ra đời thuế là phương tiện dùng để động viên nguồntài chính vào ngân sách Nhà nước (có ở tất cả các kiểu Nhà nước).Về mặtlịch sử, chức năng kêu gọi nguồn tài chính là chức năng đầu tiên, phản ánhtác nhân nảy sinh ra thuế.Thông qua chức năng này, các qũy tiền tệ tậptrung của Nhà nước được hình thành để đảm bảo cơ sở vật chất cho sự hoạtđộng thường xuyên và tồn tại của Nhà nước. Bằng chính chức năng này, Nhànước tiến hành tham gia phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội vàmức lương quốc dân trong xã hội. Chức năng phân phối và phân phối lại thunhập của thuế là sự huy động một bộ phận thu nhập quốc dân dưới cách thứctiền tệ vào ngân sách Nhà nước. Phần lớn thuế đánh trên hàng hóa và thunhập. Người có thu nhập cao và dùng nhiều hàng hóa, dịch vụ là ngườinộp thuế thường xuyên hơn. Số tiền này sau đó laiỷ được Nhà nước chi nhằm thựchiện chính sách kinh tế-xã hội, tạo ra tính công bằng tương đối cho xãhội.Trong một chừng mực nhất định, chức năng phân phối và phân phối lạiđã tạo khó khăn cho sự ra đời và phát huy tác dụng chức năng điều tiết củathuế.Chức năng phân phối và phân phối lại có vị trí ngày càngquan trọng. Ðiều này được giải thích bởi sự phát triển, mở rộng các chứcnăng của Nhà nước và việc thực hiện nhiều chính sách khác nhau, trong đócó việc can thiệp của Nhà nước vào các qúa trình kinh tế.3.1.2 Chức năng điều tiết đối với nền kinh tế.Chức năng điều tiết của thuế được nhận thức và sử dụngrộng rãi từ những năm đầu của thế kỷ XX và gắn liền với vai trò điều chỉnhcủa Nhà nước đối với nền kinh tế. Việc tăng cường vai trò kinh tế – xã hộicủa Nhà nước dẫn đến tốc độ chi tiêu của Nhà nước ngày càng tăng lên vàhậu qủa tất yếu là đòi hỏi Nhà nước phải mở rộng qũy tài chính Nhà nước,hình thành chủ yếu từ việc thu thuế. nhu cầu về nguồn tài chính càng lớn thìNhà nước cần phải tăng cường các chức năng của thuế để ảnh hưởng một cáchcó hiệu qủa đến nền kinh tế quốc dân. Chính trong qúa trình đó chức năngphân phối và phân phối lại và chức năng điều chỉnh của thuế đã được sửdụng một cách hiện thực Học Kế toán ThuếÐiều đó có nghĩa là nội dung điều tiết theo một mục tiêu nào đóđã được dự liệu trước vào trong qúa trình huy động tập trung nguồn tàichính. Bằng cách sử dụng nó để kích thích hoặc kìm hãm tốc độ tăng trưởng,tăng cường hoặc làm yếu đi sự tích lũy tiết kiệm, mở rộng hoặc thu hẹp nhucầu có thể thanh toán của dân cư, đẩy nhanh hoặc làm chậm lại chu kỳkhủng hoảng kinh tế, Nhà nước đã thực hiện điều tiết các vận hành kinh tế -xã hội trong phạm vi quốc gia.Thực hiện chức năng điều chỉnh của thuế thông qua việc quy địnhcác cách thức thu thuế khác nhéu, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế vàđối tượng nộp thuế; xây dựng chính xác, hợp lý các mức thuế phải nộp cótính đến có khả năng của người nộp thuế. Trên cơ sở đó Nhà nước kích thíchcác hoạt động kinh tế đi vào qũy đạo chung của nền kinh tế quốc dân, phùhợp với lợi ích của toàn xã hội. Trong khó khăn chuyển sang cơ chế thịtrường, vai trò kích thích kinh tế thông qua thuế ngay càng được cải thiện.Nhà nước dùng thuế để tác động lên lợi ích kinh tế của các chủ thể vì lợiích của nền kinh tế quốc dân. Với công cụ thuế, sự can thiệp của Nhà nướckhông mang tính chất mệnh lệnh, bắt buộc các chủ thể phải buôn bán haykhông buôn bán mà chủ yếu tạo ra sự lựa chọn đối với các chủ thể kinhdoanh.Giữa hai chức năng trên của thuế có mối quan hệ gắn bó mậtthiết với nhau. Chức năng phân phối và phân phối lại của thuế là nguyênnhân ảnh hưởng đến sự vận động và phát triển của chức năng điểu tiết.Nhưng chức năng điều tiết của thuế cũng có ảnh hưởng ngược lại đến chứcnăng phân phối và phân phối lại mức thu nhập. Nguồn tài chính mà Nhà nước tậptrung được dưới dạng thuế là tiền đề của sự can thiệp của Nhà nước trêndiện rộng và theo chiều sâu tới qúa trình sản xuất buôn bán của các doanhnghiệp. Ngược lại, việc điều tiết, sắp xếp sản xuất của Nhà nước nhằm vàoviệc đẩy nhanh nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế lại tạo điều kiện để tăng thunhập của các tầng lớp nhân dân và đây chính là cơ sở quan trọng để mở rộngphạm vi ảnh hưởng của chức năng phân phối và phân phối lại.Sự thống nhất nội tại của các chức năng hoàn toàn không loạitrừ các mâu thuẩn nội tại trong mỗi chức năng và giữa hai chức năng. Sựtăng cường chức năng phân phối và phân phối lại làm cho nguồn thu củaNhà nước tăng lên. Ðiều đó có nghĩa là mở rộng có khả năng của Nhà nướctrong việc thực hiện các chương trình kinh tế xã hội. mặc khác, việc tăngcường chức năng phân phối và phân phối lại một cách qúa mức làm tănggánh nặng thuế và hậu qủa là làm hạn chế động lực phát triển kinh tế, trongthường xuyên trường hợp làm hạn chế vai trò của chức năng điều tiết. Ðó là tính haimặt của thuế, nó có thể làm ảnh hưởng đến nền kinh tế một cách tíchcực, nhưng cũng có khả năng ảnh hưởng một cách tiêu cực. Tính hai mặt của sựtác động đó cần phải được xem xét nghiêm túc kỹ lưỡng trong tiến trìnhđịnh hướng, xây dựng, ban hành các chính sách pháp luật về thuế của Nhànước trong từng giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội nhất định.3.2.Vai trò của thuế đối với Ngân sách Nhà nước.Các nhà kinh tế học thường đề cập vai trò của thuế đối vớingân sách Nhà nước và đời sống xã hội. Bởi vì trên thực tế, thông qua hoạtđộng thu thuế, Nhà nước tập trung được một bộ phận của cải của xã hội từđó hình thành nên qũy ngân sách Nhà nước và thực hiện các chính sách kinhtế – xã hội.Về phương diện Luật học, thuế là một thực thể do Nhà nước đặt rathông qua việc ban hành các văn bản pháp luật. Các văn bản quy phạm phápluật không những quy định nội dung những loại thuế mà còn xác lập các quyền,nghĩa vụ của các chủ thể, các biện pháp đảm bảo thực hiện thu, nộp thuế.Pháp luật thuế là sự thể chế hoá các chính sách kinh tế – xã hội cuả Nhànước. Chính Vì vậy pháp luật thuế là nhân tố quyết định ý nghĩa kinh tế – xãhội của thuế và có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế và cuộc sống xã hội.Vai trò của thuế là sự biểu hiện cụ thể các chức năng của thuế trongnhững điều kiện kinh tế, xã hội nhất định. Trong điều kiện nền kinh tế thịtrường, với sự thay đổi phương thức can thiệp của Nhà nước vào vận hànhkinh tế, thuế đóng vai trò hết sức quan trọng đối với qúa trình phát triển kinhtế – xã hội. Vai trò của thuế được thể hiện trên các khía cạnh sau đây:+ Pháp luật thuế là công cụ chủ yếu của Nhà nước nhằm huy động tậptrung một phần của cải vật chất trong xã hội vào ngân sách Nhà nước.Nhà nước ban hành pháp luật thuế và ấn định những loại thuế áp dụng đối vớicác pháp nhân và thể nhân trong xã hội.Việc các chủ thể nộp thuế – thực hiệnnghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật thuế đã tạo ra nguồn tài chínhquan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu ngân sách Nhà nước.tương đương pháp luật nói chung, Pháp luật thuế có chức năng điều chỉnh cácquan hệ xã hội. Mục đích chủ yếu và quan trọng nhất cuả sự điều chỉnh quanhệ pháp luật thu – nộp thuế là nhằm tạo lập qũy ngân sách Nhà nước. Hầuhết ở các quốc gia, thuế là cách thức chủ yếu mà pháp luật quy định để thungân sách Nhà nước. Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủyếu vào nguồn thu nội bộ của nền kinh tế quốc dân. Trong khó khăn nềnkinh tế thị trường, xuất phát từ phạm vi hoạt động mà đòi hỏi Nhà nước phảiban hành và tổ chức thực hiện pháp luật thuế để tập trung nguồn tài chínhvào ngân sách Nhà nước từ đó mới phục vụ được nhu cầu chi ngày càngtăng. Thuế là công cụ quan trọng nhất để phân phối lại tổng danh mục xã hộivà mức thu nhập quốc dân theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.hiện nay nguồn thu nước ngoài đã Giảm thường xuyên, kinh tế đối ngoại chuyểnthành có vay có trả. Trước tiên, thuế là một công cụ quan trọng để góp phầnổn định trật tự xã hội, chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho việc phát triển lâudài.Với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, hệ thống pháp luật thuếmới được áp dụng thống nhất giữa các thành phần kinh tế. Thuế đã điềuchỉnh được hầu hết các hoạt động sản xuất, buôn bán, các nguồn mức thu nhập,mọi tiêu dùng xã hội. Ðây là nguồn thu chính của ngân sách Nhà nước.