Hiểu đúng về đổi mới và sáng tạo

Bài viết Hiểu đúng về đổi mới và sáng tạo thuộc chủ đề về Wiki How thời gian này đang được rất nhiều bạn quan tâm đúng không nào !! Hôm nay, Hãy cùng https://khoalichsu.edu.vn/hoi-dap/ tìm hiểu Hiểu đúng về đổi mới và sáng tạo trong bài viết hôm nay nhé ! Các bạn đang xem bài : “Hiểu đúng về đổi mới và sáng tạo”

Đánh giá về Hiểu đúng về đổi mới và sáng tạo


Xem nhanh
Một trong những chìa khóa thành công của những doanh nghiệp đó là luôn thích nghi nhanh với những sự thay đổi hoặc đón đầu những xu thế mới của thị trường để tạo ra những sản phẩm và dịch vụ phù hợp. Do đó, đầu tư vào việc nghiên cứu về đổi mới sáng tạo luôn luôn là yếu tố cần thiết ở mỗi doanh nghiệp, vì nếu không đổi mới sáng tạo thì doanh nghiệp không thể tồn tại và phát triển trong môi trường biến động nhanh, linh hoạt và có tính cạnh tranh cao.

TÓM TẮT:

Hiện tại, trên thế giới, các nhà quản trị và ngay cả các học giả vẫn chưa thống nhất về sự khác biệt giữa “đổi mới” và “sáng tạo”. Vì vậy, đã có một số hiểu lầm xung quanh 2 ngôn từ này. Bài báo này tổng quan các công trình nghiên cứu về đổi mới và sáng tạo trong những năm gần đây, để đưa ra các khái niệm về đổi mới và sáng tạo, tương đương những điểm khác biệt cơ bản giữa 2 thuật ngữ. Kết quả thống kê cho thấy, sáng tạo là điểm khởi đầu của đổi mới và đổi mới là kết quả từ quy trình sáng tạo của người lao động trong Doanh nghiệp.

Từ khóa: đổi mới, sáng tạo, Tổ chức Hợp tác Phát triển kinh tế.

1. Đặt vấn đề

Tại Việt Nam, đổi mới – sáng tạo đang là ngôn từ phổ biến và được dùng rất nhiều trong nghiên cứu khoa học. Hầu hết các học giả tại Việt Nam cũng như một vài nhà nghiên cứu trên thế giới vẫn dùng đồng nhất thuật ngữ đổi mới – sáng tạo và không có sự phân biệt rõ ràng giữa 2 khái niệm này. và cạnh đó, có nghiên cứu còn cho rằng đổi mới chính là sáng tạo (Lu và cộng sự, 2015). tuy nhiên, trong những năm gần đây, thường xuyên thống kê trên thế giới đã phát triển “đổi mới” từ việc chỉ nghĩ về khái niệm đến thực hiện thành công, từ khái niệm tĩnh trở thành tiến trình động. quá trình nhận thức và tạo ý tưởng mới được xem là giai đoạn khởi đầu của đổi mới (Kanter, 1996). Bước quan trọng để hoàn thành đổi mới là làm thế nào để có được sự hỗ trợ của người phê duyệt, thúc đẩy khái niệm và đưa đổi mới vào thực tế. Điều này làm cho đổi mới và khái niệm đổi mới phù hợp với nhéu (Lu và cộng sự, 2015).

ngoài ra, đổi mới còn được xem là yếu tố then chốt quyết định tới sự thành công của Doanh nghiệp trên thị trường (Jimenez và Sanz-Valle, 2011). bên cạnh đó, đổi mới còn được biết đến rộng rãi như là một trong số những nguồn lực quan trọng nhất để duy trì lợi thế cạnh tranh bền vững trong môi trường buôn bán đầy biến động như Hiện tại. Bởi vì, đổi mới dẫn tới những thay đổi ngay nhanh chóng về danh mục và sản phẩm, khiến cho đối thủ cạnh tranh không thể bắt chước trong thời gian ngắn, nên sẽ giúp cho Doanh nghiệp đạt được lợi nhuận tương đối cao (Atalay và cộng sự, 2013). tuy nhiên, mọi đổi mới trong Doanh nghiệp đều đặn xuất phát từ những ý tưởng sáng tạo của người lao động. Những ý tưởng mới của người lao động sẽ được đánh giá bởi các nhà quản trị và áp dụng trong toàn bộ công ty để tạo ra những quá trình đổi mới (Lu và cộng sự, 2015).

Chính do đó, việc phân biệt rõ ràng 2 khái niệm đổi mới và sáng tạo là rất quan trọng. Dựa trên học thuyết phát triển kinh tế của Schmpeter (1934) và các công trình thống kê về đổi mới trong những năm gần đây, bài báo này sẽ làm rõ những khái niệm về đổi mới và sáng tạo, tương đương sự khác nhéu cơ bản giữa 2 khái niệm đổi mới và sáng tạo. Đồng thời, bài báo cũng sẽ đưa ra một số kết luận quan trọng giúp cho nhà quản trị đưa ra được những giải pháp phù hợp để tiến hành các vận hành đổi mới, tương đương kích thích được khả năng sáng tạo của người lao động trong công ty.

Mọi Người Xem :   Khái niệm, đặc điểm,các hình thức tín dụng trung - dài hạn

✅ Mọi người cũng xem : tín nhiệm tiếng anh là gì

2. Tổng quan thống kê

✅ Mọi người cũng xem : ý nghĩa hình xăm chữ phạn

2.1. Sáng tạo

Nhà kinh tế chính trị người Áo Schumpeter (1934) đã đưa ra định nghĩa: Sáng tạo (creativity) là việc người lao động dùng các vận hành nhận thức để đưa ra những ý tưởng mới trong công ty. Những ý tưởng này được người lao động hình thành thông qua quy trình học tập, làm việc và tích lũy kinh nghiệm trong quá trình làm việc tại Doanh nghiệp. Những ý tưởng của người lao động có khả năng xuất phát từ việc suy nghĩ làm sao để cải tiến công việc và cải thiện năng suất đối với công việc chi tiết. mặt khác, khi đứng trước vấn đề mới phát sinh, lần đầu xảy ra trong Doanh nghiệp, người lao động đôi khi lại đưa ra được những ý tưởng hoàn toàn mới để giải quyết vấn đề này. Tất cả những ví dụ trên cho thấy rằng, sáng tạo đều đặn xuất phát từ suy nghĩ và ý tưởng của người lao động, cùng lúc ấy được người lao động hình thành trong quy trình thực hiện và giải quyết các công việc cụ thể trong Doanh nghiệp.

và cạnh đó, đồng quan điểm với nghiên cứu của Schumpeter (1934), nghiên cứu của Afuah (2003) đã mở rộng khái niệm sáng tạo. Trong đó, sáng tạo là việc người lao động đưa ra những ý tưởng mới lạ, hoặc cách tiếp cận độc đáo trong giải quyết vấn đề. Tính sáng tạo là yếu tố đầu tiên và là khó khăn tiên quyết để công ty có được những phát minh mới và từ đó là sự đổi mới. Tính sáng tạo là tiền đề cơ bản của những đổi mới trong công ty. mặt khác, tính sáng tạo làm nảy sinh những ý tưởng ban đầu, cùng lúc ấy giúp cải thiện ý tưởng trong qúa trình phát triển của Doanh nghiệp. Vì vậy, Afuah (2003) kết luận rằng, tính sáng tạo là một trong số những tài sản quý giá nhất của Doanh nghiệp, là kết quả của sự sáng tạo cá nhân và sáng tạo nhóm. Những Doanh nghiệp có nhiều lao động sáng tạo sẽ giúp thúc đẩy các công ty đổi mới hơn các Doanh nghiệp khác, qua đó thúc đẩy quy trình cải tiến sản phẩm để nâng cao sự cạnh tranh trên thị trường, tương đương thu hút thêm được các khách hàng tiềm năng, giúp cải thiện lợi nhuận của công ty.

2.2. Đổi mới

hiện nay, các học giả trên thế giới đã đưa ra thường xuyên khái niệm về đổi mới, các cách thức đổi mới trong công ty. tuy nhiên, tất cả các quá trình đổi mới trong công ty đều xuất phát từ những ý tưởng sáng tạo của người lao động (Schumpeter, 1934). Đổi mới (innovation) xuất hiện lần đầu tiên trong tiếng La-tinh, với từ “nova” có nghĩa là mới. nhiều thống kê cho rằng, đổi mới liên quan tới sáng tạo. Ví dụ, Amablile và cộng sự (1996) định nghĩa đổi mới là việc thực hiện thành công các ý tưởng sáng tạo của người lao động trong công ty.

Đáng chú ý, khi chuyển ngữ “innovation” sang tiếng Việt, được cho là gây ra nhầm lẫn với thuật ngữ “đổi mới”, vốn cũng như với khái niệm “renovation” – là tên của chính sách cải cách toàn diện, thay đổi ngay căn bản về kinh tế, cuộc sống xã hội,… do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và thực thi sau Đại hội Đảng lần thứ VI, năm 1986. Vì vậy, tồn tại một cách gọi khác, thay cho ngôn từ “đổi mới” bằng “đổi mới sáng tạo”, được phổ biến trên các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản quản lý và thông tin đại chúng. Để đảm báo tính thống nhất học thuật và phù hợp với quốc tế, trong phạm vi bài báo này, tác giả chọn dùng thuật ngữ “đổi mới”.

tuy nhiên, một vài học giả khác cho rằng, đổi mới xuất phát từ việc ứng dụng và phát triển tri thức mới trong các Doanh nghiệp. Ví dụ, đổi mới là việc biến các ý tưởng mới và tri thức mới trở thành những sản phẩm, quá trình và sản phẩm mới để cải thiện lợi thế cạnh tranh và phục vụ những mong muốn đang thay đổi từ phía khách hàng (Nymstrom, 1990).

mặt khác, thường xuyên học giả cho rằng, đổi mới phải liên quan tới “phát minh” và “thương mại hóa”. Bởi vì, khía cạnh quan trọng của đổi mới là phải tạo ra được lợi nhuận và gia tăng tổng giá trị cho công ty. Việc tạo ra ý tưởng mới và áp dụng những ý tưởng mới này để tạo ra những danh mục và quá trình mới chỉ là giai đoạn khởi đầu của đổi mới trong công ty (Schumpeter, 1934). do đó, để trở thành đổi mới, các ý tưởng cần được phát triển nhằm tạo ra các danh mục và dịch vụ theo mong muốn của khách hàng. do đó, đổi mới là việc dùng các kiến thức mới, nhằm cung cấp các danh mục và sản phẩm mới phục vụ mong muốn của khách hàng (Afuah, 2003). Và khi công ty thu được lợi nhuận từ những sản phẩm và dịch vụ mới của mình tức là quy trình đổi mới đã gắn với những “phát minh”, cùng lúc ấy được “thương mại hóa” trên thị trường.

Mọi Người Xem :   Nấc - Khi nào là nguy hiểm?

Từ việc tổng quan các công trình nghiên cứu trên thế giới, Chúng Tôi thấy rằng đã có thường xuyên khái niệm khác nhéu liên quan đến đổi mới. Vì vậy, tác giả xin phép đưa ra khái niệm về đổi mới như sau: “Đổi mới là quá trình công ty chuyển hóa các ý tưởng của người lao động thành các sản phẩm và quá trình mới để phục vụ mong muốn của khách hàng. Trong đó, những ý tưởng mới của người lao động là điểm khởi đầu cho quy trình đổi mới của Doanh nghiệp”. (Hình 1)

Hiểu đúng về đổi mới và sáng tạo 2

✅ Mọi người cũng xem : nhà tuyết tiếng anh là gì

3. Sự khác biệt giữa sáng tạo và đổi mới

Dựa trên việc tổng quan thống kê các khái niệm liên quan tới đổi mới và sáng tạo, sự khác biệt giữa 2 thuật ngữ này được giải thích như sau:

Thứ nhất, sáng tạo là điểm khởi đầu cho quá trình đổi mới. Sáng tạo chỉ đơn thuần là suy nghĩ của người lao động về điều gì đó khác lạ và độc đáo. trong lúc đó, đổi mới là quy trình chuyển hóa ý tưởng của người lao động trở thành sản phẩm/sản phẩm mới có ích và đem lại giá trị cao cho công ty.

Thứ hai, sáng tạo là hoạt động tri thức và tinh thần của người lao động nhằm đưa ra ý tưởng mới. Còn đổi mới là việc áp dụng những ý tưởng mới vào thực tế công việc tại Doanh nghiệp.

Thứ ba, sáng tạo là việc hình thành nên những ý tưởng của người lao động, nên rất khó để đo lường. trong khi đó, đổi mới có khả năng được “phát minh” và “thương mại hóa” nên rất dễ để đo lường. Việc đo lường đổi mới có khả năng được đánh giá thông qua các bằng sáng chế, hoặc doanh thu từ việc bán các danh mục hay dịch vụ mới.

Thứ tư, về trách nhiệm pháp lý, sáng tạo chỉ là ý tưởng được hình thành trong suy nghĩ và tiềm thức của người lao động, nên những sáng tạo khi chưa được chuyển hóa thành các danh mục và sản phẩm thì không gây ra bất cứ tổn hại nào, nên không bị ràng buộc bởi trách nhiệm pháp lý. mặc khác, đổi mới là quá trình để đưa ra những danh mục, sản phẩm và quá trình mới, nên có thể gây ra những tổn hại cho công ty hoặc xã hội. Vì vậy, đổi mới liên quan tới trách nhiệm pháp lý khi đổi mới trở thành hiện thực.

Thứ năm, sáng tạo không cần bất kỳ nguồn lực nào từ Doanh nghiệp. Bởi vì sáng tạo đơn thuần chỉ là suy nghĩ của người lao động. mặc khác, để chuyển hóa những ý tưởng mới thành danh mục, dịch vụ và quy trình mới, công ty phải cung cấp cho người lao động những nguồn lực cần thiết, như: nhân lực, tài chính hay cơ sở vật chất. Do vậy, xét về góc độ kinh tế, sáng tạo không mất chi phí, nhưng quy trình đổi mới thì cần có chi phí để thực hiện.

Thứ sáu, không phải ý tưởng sáng tạo nào trong công ty cũng có khả năng biến thành đổi mới. Bởi vì chỉ có những ý tưởng khả thi, có thể thực hiện trong thực tế, Doanh nghiệp mới đầu tư và triển khai thực hiện. mặc khác, mọi quá trình đổi mới đều đặn là kết quả từ sự sáng tạo của người lao động trong công ty. (Bảng 1)

Bảng 1. Sự khác nhéu giữa đổi mới và sáng tạo

Cơ sở so sánh

Sáng tạo

Đổi mới

Định nghĩa

Là khả năng tạo ra hoặc suy nghĩ về một cái gì đó không thường nhật hoặc độc đáo

Đổi mới là quy trình tạo ra một cái gì mới có tổng giá trị đối với Doanh nghiệp và cộng đồng

hoạt động

Đưa ra những ý tưởng độc đáo

Áp dụng những ý tưởng mới vào thực tế

Đo lường

Rất khó đo lường

Dễ đo lường

Trách nhiệm pháp lý

Không mang trách nhiệm pháp lý vì chỉ là ý tưởng và suy nghĩ

có khả năng liên quan tới trách nhiệm pháp lý khi đổi mới trở thành hiện thực

Nguồn lực

Không cần nguồn lực

Cần có nguồn lực

Ý nghĩa

Không phải sự sáng tạo nào cũng dẫn tới đổi mới

Mọi đổi mới đều đặn là kết quả của sáng tạo

Mọi Người Xem :   Ý nghĩa thú vị của ngày 12/12/2012

Nguồn: https://askanydifference.com/difference-between-creativity-vs-innovation/

✅ Mọi người cũng xem : peek-a-boo ý nghĩa

4. Kết luận

Thứ nhất, đổi mới và sáng tạo chỉ phân biệt được khi dựa trên quy trình hình thành. Trong đó, sáng tạo là hoạt động nhận thức để hình thành nên những ý tưởng mới của người lao động. Còn đổi mới là quá trình chuyển đổi những ý tưởng sáng tạo trở thành những sản phẩm, dịch vụ và quá trình mới. do đó, sáng tạo là điểm khởi đầu của đổi mới và đổi mới là kết quả của sáng tạo.

Thứ hai, tất cả các công ty muốn tồn tại và cạnh tranh trên thị trường đều đặn phải đổi mới. công ty có thường xuyên đổi mới sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh tốt hơn công ty ít đổi mới. Bởi vì, khi Doanh nghiệp đưa sản phẩm mới ra thị trường sẽ thu hút được khách hàng bởi những tính năng độc đáo, do đó công ty có thể đạt được lợi nhuận tương đối cao. tuy nhiên, những danh mục mới của khách hàng có thể bị bắt chước bởi những đối thủ cạnh tranh. Nhưng nếu công ty tiếp tục cho ra đời những danh mục mới thì có thể đạt được lợi nhuận bền vững trong dài hạn (Schumpeter, 1934). Chính do đó, Doanh nghiệp luôn cần phải đổi mới sản phẩm. Để làm được điều này, các nhà quản trị cần phải tập trung đầu tư để nâng cao chất lượng đội ngũ nguồn nhân lực, cũng như phòng thí nghiệm của bộ phận thống kê và phát triển (R&D) trong công ty.

Thứ ba, đổi mới được hình thành dựa trên những ý tưởng khác nhéu. Do vậy, đổi mới có rất nhiều cách thức, cũng như cách đo lường. một số nghiên cứu cho rằng, đổi mới xuất phát từ quá hình thay đổi ngay hành vi của người lao động (Lu và cộng sự, 2015). Nhưng một số thống kê chỉ ra rằng, đổi mới là quá trình công ty đổi mới sản phẩm, đổi mới tổ chức, đổi mới marketing và đổi mới dịch vụ (Atalay và cộng sự, 2013). mặt khác, thống kê của Beugelsdijk (2008) kết luận, Doanh nghiệp có khả năng tung ra thị trường một danh mục hoàn toàn mới, hay có khả năng chỉ là thay đổi một vài cụ thể để giúp sản phẩm tăng độ bền hoặc có kiểu dáng đẹp hơn so với các danh mục trước đây. bên cạnh đó, Tổ chức Hợp tác Phát triển kinh tế – OECD (2005) đã đưa ra 4 cách thức đổi mới trong công ty, gồm: (1) đổi mới tổ chức, (2) đổi mới quy trình, (3) đổi mới danh mục và (4) đổi mới marketing. tuy nhiên, mới đây nhất, tổ chức này cho rằng trong công ty chỉ tồn tại 2 cách thức đổi mới, đó là: (1) đổi mới sản phẩm và (2) đổi mới quá trình (OECD, 2018). Do vậy, tùy từng điều kiện chi tiết tại Doanh nghiệp, các nhà quản trị có thể áp dụng các phương pháp đổi mới phù hợp với thực tế.

Thứ tư, bên cạnh việc vận dụng tri thức của người lao động để đưa ra những ý tưởng sáng tạo dẫn tới quá trình đổi mới, các nhà quản trị trong Doanh nghiệp cũng cần phải nghiên cứu những thay đổi ngay của đối thủ cạnh tranh, khảo sát nhu cầu của khách hàng để đưa ra những đổi mới phù hợp. Đổi mới là quy trình dựa trên sự thay đổi ngay nhénh chóng của công nghệ,. Vì vậy, các công ty cần phải nắm bắt được chiều hướng chuyển dịch công nghệ của thị trường để đưa ra những thay đổi quan trọng của công ty, với mục đích cải thiện lợi thế cạnh tranh và phát triển bền vững trên thị trường.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Afuah, A. (2003). Quản trị quá trình đổi mới và sáng tạo. Nhà xuất bản Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
  2. Amabile, T.M. (1996). Creativity in Context: Update to “the Social Psychology of Creativity”. USA: Westview Press.
  3. Atalay, M., Anafarta, N., & Sarvan, F. (2013). The relationship between innovation and firm performance: An empirical evidence from Turkish automotive supplier industry. 2nd International Conference on Leadership, Technology and Innovation Management. Procedia – Social and Behavioral Sciences, 75, 226-235.
  4. Beugelsdijk, S. (2008). Strategic Human Resource Practices and Product Innovation. Organization Studies, 29 (6), 821-847.
  5. Jimenez, J.D., & Sanz-Valle, R. (2011). Innovation, organizational learning and performance. Journal of Business Research, 64 (4), 408-417.
  6. Kanter, R. (1986). Supporting innovation and venture development in established companies. Journal of Business Venturing, 1 (1), 47-60.
  7. Lu, K., Zhu, J., & Bao, H. (2015). High-performance human resource managementand firm performance: The mediating role of innovation in China. Industrial Management & Data Systems, 115 (2), 353-382.
  8. OECD and Eurostat (2005). Oslo Manual-Third Edition: Guidelines for Collecting and Interpreting Innovation Data. Paris: OECD
  9. OECD and Eurostat (2018). Oslo Manual-Fourd Edition: Guidelines for Collecting, Reproting and Using Data on Innovation. Paris: OECD
  10. Schumpeter, J. (1934). The Theory of Economic Development. USA: Harvard University Press.

Differences between innovation and creativity

Master. Nguyen Chi Long

CEO, Linnkson Vietnam Co.,Ltd.

ABSTRACT:

Managers and even scholars in the world still have not shared the same views about differences between innovation and creativity. Therefore, there have been many misunderstandings about these two terms. This paper reviews researches on innovation and creativity in recent years to introduce the concepts of innovation and creativity, and also the clear differences between these two terms. This paper finds out that creativity is the starting point of innovation, innovation is the result of the creative process of employees in the enterprises.

Keywords: innovation, creativity, Organisation for Economic Co-operation and Development (OECD).

[Tạp chí Công Thương – Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 23, tháng 10 năm 2021]



Các câu hỏi về đổi mới sáng tạo là gì


Nếu có bắt kỳ câu hỏi thắc mắt nào vê đổi mới sáng tạo là gì hãy cho chúng mình biết nhé, mõi thắt mắt hay góp ý của các bạn sẽ giúp mình cải thiện hơn trong các bài sau nhé

Loading

Related Posts

About The Author