cổng thông tin điện tử tổng cục thi hành án dân sự – Bộ tư pháp

Bài viết cổng thông tin điện tử tổng cục thi hành án dân sự – Bộ tư pháp thuộc chủ đề về Giải Đáp thời gian này đang được rất nhiều bạn quan tâm đúng không nào !! Hôm nay, Hãy cùng Khoa Lịch Sử tìm hiểu cổng thông tin điện tử tổng cục thi hành án dân sự – Bộ tư pháp trong bài viết hôm nay nhé ! Các bạn đang xem chủ đề về : “cổng thông tin điện tử tổng cục thi hành án dân sự – Bộ tư pháp”

Đánh giá về cổng thông tin điện tử tổng cục thi hành án dân sự – Bộ tư pháp


Xem nhanh
Cưỡng chế hành chính là tổng hợp các biện pháp do luật hành chính quy định được áp dụng để tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp lên tâm lý, tư tưởng và hành vi của cá nhân hoặc tổ chức, buộc các chủ thể đó phải thực hiện các nghĩa vụ pháp lý nhằm mục đích phòng ngừa, ngăn chặn hoặc xử lý những hành vi trái pháp luật, bảo đảm trật tự và kỷ luật trong quản lý nhà nước.
Cảm ơn các bạn đã theo dõi!
Hãy đăng ký Kênh ủng hộ mình nhé!

Có ý kiến lại cho rằng, thi hành án thuộc loại tố tụng “hỗn hợp” vì “thi hành án có rất thường xuyên trình tự, hồ sơ và đặc trưng giống các loại tố tụng khác”. Loại quan điểm thứ hai, coi thi hành án là hoạt động quản lý hành chính – tư pháp thì cho rằng, quy trình tố tụng mà trọng tâm là việc xét xử của Toà án chấm dứt khi Toà án ra phán quyết nhân danh Nhà nước, trong đó Toà án đã xác định quyền, nghĩa vụ của các bên, còn việc thi hành phán quyết đó lại là một giai đoạn khác, không thuộc quy trình tố tụng. thi hành án không phải là giai đoạn tố tụng, bởi vì thi hành án có mục đích khác với mục đích tố tụng; tố tụng là quy trình đi tìm sự thật của các vụ việc đã diễn ra trên thực tế, trên cơ sở đó đưa ra cách giải quyết vụ việc theo đúng quy định của pháp luật, còn thi hành án là quá trình tiến hành các vận hành nhằm thực hiện các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật[1]. Loại quan điểm thứ ba cho rằng, thi hành án là hoạt động tư pháp nên phải gắn với khâu vận hành xét xử để tạo một cơ chế chặt chẽ và có hiệu quả[2] nhằm đưa ra và đảm bảo thi hành các bản án, quyết định của Toà án và các quyết liệt khác theo quy định của pháp luật. Mỗi loại quan điểm nêu trên đều đặn có những cơ sở khoa học riêng, mặc khác theo tác giả thì thi hành án là một giấy tờ tố tụng và chỉ cần xác định thi hành án là Thủ tục tố tụng thi hành án, nhớ đừng nên coi đó là một giai đoạn của giấy tờ tố tụng hình sự, dân sự, hành chính hay tố tụng khác và cần hiểu thi hành án là Thủ tục tố tụng độc lập so với các giấy tờ tố tụng khác như điều tra, kiểm sát hoặc xét xử. “Tố tụng” nhớ đừng nên hiểu chỉ là “thưa kiện tại Toà án nói chung”[3], là hoạt động của cơ quan Toà án xét xử để đi tìm “chân lý”, mà cần xem xét đến bản chất của tố tụng. Về bản chất, thực ra tố tụng chỉ là việc thực hiện các quy định của pháp luật cách thức theo hồ sơ nhất định để giải quyết các quan hệ xã hội theo đúng sự điều chỉnh của pháp luật nội dung. Tố tụng được thực hiện bởi nhiều cơ quan, tuỳ theo tính chất và mức độ do pháp luật quy định. hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng nói chung, cơ quan thi hành án nói riêng nhằm mục đích bảo đảm để bản án, quyết định của Toà án hoặc quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác được thực thi trên thực tế. hoạt động nào tuân theo giấy tờ do pháp luật cách thức quy định là vận hành tố tụng, do đó có thường xuyên loại tố tụng, như: Tố tụng dân sự, tố tụng hình sự, tố tụng hành chính, tố tụng trọng tài, tố tụng thi hành án.Từ những phân tích nêu trên có khả năng đưa ra khái niệm thi hành án là giấy tờ tố tụng do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành để thi hành bản án, quyết định của Toà án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước, tổ chức khác do pháp luật quy định, nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức và cá nhân. thi hành án dân sự là giấy tờ tố tụng thi hành các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án và các quyết liệt khác về dân sự theo quy định của pháp luật.Từ nhận định trên, để làm rõ khái niệm cưỡng chế thi hành án dân sự cần tìm hiểu về bản chất của cưỡng chế. Theo cuốn Đại Từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý (chủ biên), Trung tâm Ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo do Nhà xuất bản Văn hóa thông tin ấn hành năm 1998 thì cưỡng chế là “bắt buộc phải tuân theo bằng sức mạnh quyền lực: tính chất cưỡng chế của pháp luật”[4]. Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học do Nhà xuất bản Thanh niên ấn hành 2001 thì “cưỡng chế là dùng quyền lực nhà nước bắt buộc người khác phải tuân theo”[5]. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam tập 1 xuất bản năm 1996 thì cưỡng chế là “sử dụng quyền lực của Nhà nước để bắt buộc người khác thực hiện những việc làm trái với ý muốn của họ. Cưỡng chế là một trong những phương pháp chủ yếu của hoạt động quản lý nhà nước”[6]. Về mặt thuật ngữ pháp lý, theo cuốn Từ điển Luật học do Nhà xuất bản Từ điển bách khoa ấn hành năm 1999 thì cưỡng chế là “những biện pháp bắt buộc cá nhân hay tổ chức phải thực hiện và phục tùng mệnh lệnh nhất định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”[7]. Từ điển Luật học do Nhà xuất bản Từ điển bách khoa và Nhà xuất bản Tư pháp ấn hành năm 2006 thì cưỡng chế là “buộc cá nhân hay tổ chức phải phục tùng một mệnh lệnh, thực hiện một nghĩa vụ, trách nhiệm theo quyết liệt đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Chỉ tổ chức hay cá nhân được pháp luật quy định mới được ra quyết liệt cưỡng chế, quyết liệt lực lượng cưỡng chế. Cưỡng chế phải được tiến hành theo giấy tờ, trình tự chặt chẽ. Cá nhân hay tổ chức là đối tượng cưỡng chế có thể bị buộc phải làm hay không được làm một việc nhất định về quyền tài sản hay quyền nhân thân. Biện pháp sử dụng trong cưỡng chế là bạo lực về mặt vật chất hoặc tinh thần, thường được áp dụng khi quyết định đã có hiệu lực không được thực hiện một cách tự nguyện”[8].Như vậy, các ý kiến không hoàn toàn đồng nhất về khái niệm cưỡng chế, mặc khác có thể thấy rằng nói đến cưỡng chế là nói đến việc dùng quyền lực nhà nước, áp đặt ý chí của Nhà nước đối với tổ chức, cá nhân nhất định để buộc tổ chức, cá nhân đó phải thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định theo ý chí của Nhà nước. Quyền lực nhà nước được sử dụng với nhiều phương thức khác nhau, theo thường xuyên lĩnh vực thông qua những biện pháp nhất định và do chủ thể nhất định tiến hành. Chủ thể đó có khả năng là công chức nhà nước hoặc cá nhân, tổ chức khác được Nhà nước trao quyền tiến hành cưỡng chế. mặc khác, việc sử dụng quyền lực nhà nước để cưỡng chế cũng phải được thực hiện trên cơ sở các quy định cụ thể của pháp luật, với phương thức thực thi pháp luật phù hợp.Để bảo đảm thực thi pháp luật, ngoài phương thức giáo dục, thuyết phục mọi chủ thể tự giác tuân thủ, bất kỳ Nhà nước nào cũng sử dụng sức mạnh cưỡng chế bằng pháp luật. Cưỡng chế là khái niệm thuộc phạm trù Nhà nước và pháp luật, là hiện tượng gắn liền với Nhà nước[9]. Quyền lực nhà nước là quyền lực dựa trên sức mạnh của Nhà nước, khả năng sử dụng Nhà nước thực hiện ý chí của giai cấp thống trị buộc xã hội phải phục tùng ý chí đó; quyền lực nhà nước là quyền lực chính trị được thực hiện bằng Nhà nước và là trung tâm của quyền lực chính trị bởi vì Nhà nước là tổ chức rộng lớn nhất, bao trùm lên toàn bộ xã hội, quản lý mọi tầng lớp dân cư trong phạm vi lãnh thổ của mình[10]. Như vậy, cưỡng chế là sử dụng quyền lực nhà nước buộc tổ chức, cá nhân nhất định phải tuân theo, đó là một phương thức dùng và bảo đảm cho quyền lực nhà nước được thực hiện bởi biện pháp nhất định và do chủ thể có thẩm quyền tiến hành.Vậy cưỡng chế thi hành án dân sự có bản chất là gì? Đây là vấn đề cần làm sáng tỏ. Theo nghiên cứu thì quyền lực nhà nước được bảo đảm thực hiện bởi nhiều loại hình cưỡng chế, được quy định thành pháp luật, như: cưỡng chế hành chính, cưỡng chế thi hành án hình sự, cưỡng chế thi hành án dân sự. thi hành án được phân chia thành nhiều loại, như: thi hành án hình sự, thi hành án hành chính, thi hành án dân sự. Mỗi loại thi hành án có hình thức, trình tự, Thủ tục tiến hành đặc thù ngoài những trình tự, hồ sơ chung của quá trình thi hành án. Trong các loại thi hành án thì hệ thống tổ chức, thẩm quyền và trình tự, giấy tờ thi hành án không hoàn toàn giống nhéu. thi hành án hành chính có phần thi hành khoản tiền, của cải/tài sản và phần đôn đốc, theo dõi thi hành án hành chính, vì vậy, cách thức, mức độ và thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế cũng khác nhau. Đối với thi hành án hình sự, theo quy định tại Điều 30 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc Giảm quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó[11]. Việc thi hành các hình phạt cũng đồng nghĩa với việc cơ quan có thẩm quyền cưỡng chế người bị kết án thi hành hình phạt. Cưỡng chế thi hành án hình sự mang tính tuyệt đối, đối tượng cưỡng chế thi hành hình phạt có thể là quyền tự do thân thể, của cải/tài sản, thậm chí cả tính mạng của người bị kết án.  thi hành án dân sự là thi hành bản án, quyết liệt về dân sự của Tòa án và cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo trình tự, giấy tờ pháp luật quy định. hồ sơ là “những việc chi tiết phải làm theo một trình tự quy định để tiến hành một công việc có tính chất chính thức”[12]; trình tự là “sự sắp xếp lần lượt, thứ tự trước sau”[13]; như vậy, hồ sơ là việc thực hiện công việc nhất định theo những quy định chi tiết được sắp xếp theo trình tự nhất định. vì vậy, Thủ tục thi hành án dân sự là trình tự thi hành bản án, quyết định của Tòa án và quyết định của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật. Thủ tục thi hành án dân sự thực hiện thông qua nhiều công việc, mỗi công việc chi tiết của hồ sơ thi hành án dân sự được tiến hành theo hồ sơ riêng, từ khi nhận bắt buộc thi hành án hoặc nhận bản án, quyết định; ra quyết định thi hành án; thông báo, xác minh khó khăn thi hành án; áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự; giao nhận quyền lợi, tài sản, thanh toán tiền thi hành án.v.v. đến kết thúc việc thi hành án. Cưỡng chế thi hành án dân sự nằm trong Thủ tục thi hành án dân sự, Vì vậy việc thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự phải tuân theo trình tự, giấy tờ nhất định.Trong hoạt động thi hành án dân sự, để bảo đảm hiệu lực thi hành của các bản án, quyết định, Nhà nước quy định các biện pháp cưỡng chế bảo đảm cho việc thi hành án. Khi Toà án ra bản án, quyết liệt thì bản thân sự phán quyết đó thể hiện quyền lực đặc biệt của Nhà nước bởi lẽ trong ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp thì Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp. Mặc dù còn thường xuyên ý kiến khác nhéu về quyền tư pháp, tuy nhiên có thể thấy rằng quyền tư pháp có nghĩa rất rộng, bao gồm nhiều quyền liên quan trực tiếp đến hoạt động xét xử, như quyền điều tra, quyền truy tố và quyền thi hành án. “Quyền tư pháp không những là quyền xét xử mà còn bao gồm các quyền năng khác được giao cho Tòa án thực hiện (như: quyền đánh giá, kết luận về tính hợp pháp và có căn cứ của các quyết định, hành vi tố tụng; xem xét, áp dụng hoặc thay đổi các biện pháp ngăn ngừa hoặc cưỡng chế của Nhà nước; quyết định, giám sát việc thi hành bản án, quyết liệt của Tòa án…)”[14]. Tòa án nhân danh Nhà nước đưa ra các phán quyết giải quyết tranh chấp, vi phạm, quyết định người nào có tội. Theo quyết liệt của Toà án, người bị kết án sẽ phải chịu một hình phạt nhất định hoặc một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào đó sẽ phải gánh chịu một nghĩa vụ của cải/tài sản hay thực hiện một công việc vì lợi ích của người khác. Như vậy, Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp thì Tòa án thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn nhất định trong thi hành án, có chức danh tư pháp thuộc Tòa án để ra các quyết định làm khởi động, thay đổi ngay hoặc hủy bỏ việc thi hành án và quyết liệt các vấn đề quan trọng liên quan trực tiếp đến quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong thi hành án, như ra quyết liệt thi hành án, áp dụng một số biện pháp cưỡng chế thi hành án; cơ quan, tổ chức, cá nhân khác cũng được giao nhiệm vụ tổ chức việc thi hành án.Phạm vi thi hành án dân sự là việc tổ chức thi hành “bản án, quyết liệt dân sự, hình phạt tiền, tịch thu của cải/tài sản, truy thu tiền, của cải/tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, của cải/tài sản, án phí và quyết liệt dân sự trong bản án, quyết liệt hình sự, phần của cải/tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Toà án, quyết liệt của Tòa án giải quyết phá sản, quyết liệt xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành và phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại”[15] và quyết định, văn bản khác (sau đây gọi chung là bản án, quyết định dân sự). Phạm vi cưỡng chế thi hành án dân sự chính là cưỡng chế để đảm bảo thi hành bản án, quyết định đó theo quy định của pháp luật.Là một loại cưỡng chế thi hành án, Vì vậy cưỡng chế thi hành án dân sự có đặc trưng chung của cưỡng chế thi hành án nhưng cũng có đặc thù. Cưỡng chế thi hành án dân sự bao giờ cũng dùng quyền lực nhà nước để buộc cá nhân, tổ chức liên quan trực tiếp đến việc thực hiện bản án, quyết định, cho dù đó có khả năng là người được thi hành án, người phải thi hành án hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án dân sự hoặc cá nhân, tổ chức khác. nói đến cưỡng chế thi hành án dân sự là đề cập đến việc sử dụng quyền lực nhà nước để thi hành án dân sự, tức là bắt buộc phải thi hành án, bởi lẽ bản án, quyết liệt đã được tuyên có hiệu lực pháp luật thì các đương sự phải tự nguyện thi hành, nếu không tự nguyện thì Nhà nước cưỡng chế bắt buộc phải thi hành. Việc dùng quyền lực nhà nước trong cưỡng chế thi hành án dân sự phải thông qua chủ thể nhất định tiến hành bằng những biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự cụ thể. Chủ thể tiến hành cưỡng chế thi hành án dân sự là chức danh chi tiết bởi vì tính chất đặc thù của thi hành án dân sự là do chức danh cụ thể tiến hành việc thi hành án dân sự, chủ thể đó có khả năng là công chức nhà nước thuộc Tòa án hoặc cơ quan nhà nước khác hoặc không phải là công chức nhà nước nhưng được Nhà nước trao quyền tiến hành cưỡng chế thi hành án dân sự, ở Việt Nam hiện nay đó là CHV và TPL. Chủ thể tiến hành cưỡng chế thi hành án dân sự tuân theo quy định cụ thể của pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự mà không được tiến hành cưỡng chế thi hành án dân sự một cách tùy thuận tiện theo ý muốn của mình, mọi hành vi vi phạm của chủ thể tiến hành cưỡng chế thi hành án dân sự đều bị xử lý.Để bảo đảm thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự thì Nhà nước quy định bằng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, trong đó có quy định các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự và hình thức thực hiện. Trong thi hành án dân sự có thường xuyên bản án, quyết định được thi hành, với nhiều loại nghĩa vụ thi hành án, vì thế quy định về cưỡng chế thi hành án dân sự phải có hình thức tiến hành cụ thể tương thích với loại nghĩa vụ đó, như: Cưỡng chế buộc thực hiện công việc nhất định, cưỡng chế buộc không được thực hiện công việc nhất định, cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền, cưỡng chế giao vật, chuyển QSDĐ, giao nhà, trả nhà, trừ vào thu nhập hoặc khai thác tài sản để thi hành án. Cưỡng chế thi hành án dân sự được đặt ra và tiến hành với mục đích cụ thể là thi hành việc thi hành án dân sự nhưng mục đích chung là thi hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định được thi hành theo hồ sơ thi hành án dân sự, bảo đảm hiệu lực thi hành của bản án, quyết định đó.Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm cưỡng chế thi hành án dân sự như sau: Cưỡng chế thi hành án dân sự là việc chủ thể có thẩm quyền dùng quyền lực nhà nước thực hiện biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự đối với tổ chức, cá nhân nhằm bảo đảm thi hành trên thực tế quyền, nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết liệt được thi hành theo Thủ tục thi hành án dân sự. Cưỡng chế thi hành án dân sự có khả năng được xem xét dưới góc độ là một quan hệ pháp luật, một chế định pháp luật hoặc một vận hành áp dụng pháp luật trong thực tiễn.2. Đặc điểm của cưỡng chế thi hành án dân sựTheo cuốn Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học do Nhà xuất bản Đà Nẵng ấn hành 2003 thì đặc điểm là “nét riêng biệt”[16]. Cưỡng chế thi hành án dân sự có những đặc điểm sau đây:2.1. Cưỡng chế thi hành án dân sự thể hiện quyền lực nhà nướctương đương nhiều loại cưỡng chế khác (cưỡng chế hành chính, cưỡng chế thi hành án hình sự và cưỡng chế thi hành án hành chính v.v.), cưỡng chế thi hành án dân sự thể hiện quyền lực nhà nước, chỉ có cá nhân thuộc cơ quan chức năng của Nhà nước hoặc người thuộc tổ chức được nhé̀ nước trao quyền mới có thẩm quyền tiến hành cưỡng chế. Tùy loại hình cưỡng chế mà chủ thể khác nhau có thẩm quyền tiến hành nhưng đều đặn thể hiện việc dùng quyền lực nhà nước đối với đối tượng bị cưỡng chế. Quyền lực nhà nước được thể hiện thông qua cưỡng chế thi hành án dân sự bằng việc chủ thể có thẩm quyền tiến hành cưỡng chế thi hành án dân sự ban hành quyết liệt cưỡng chế buộc cá nhân, tổ chức nhất định phải chấp hành để thi hành bản án, quyết định được thi hành theo Thủ tục thi hành án dân sự, nếu không chấp hành thì sẽ bị xử lý nghiêm bằng các phương thức như xử phạt hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự và bồi thường thiệt hại nếu có. Cưỡng chế thi hành án dân sự yêu cầu các tổ chức, cá nhân tôn trọng và phối hợp thực hiện bản án, quyết liệt, kể cả sử dụng lực lượng chuyên chính là cảnh sát để bảo vệ cưỡng chế thi hành án dân sự, trấn áp những cá nhân có hành vi chống đối cưỡng chế thi hành án dân sự.Theo Lthi hành án dân sự và Nghị quyết số 107/2015/QH13 ngày 26/11/2015 của Quốc hội về thực hiện chế định TPL thì điểm khác biệt quan trọng của cưỡng chế thi hành án dân sự so với các loại hình cưỡng chế khác là chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế hay còn gọi là tiến hành cưỡng chế thi hành án dân sự là CHV và TPL để thi hành bản án, quyết liệt Tòa án, ngoại trừ trường hợp đặc thù là thi hành quyết liệt của Trọng tài thương mại và Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh. mặt khác, xuất phát từ bản chất của thi hành án dân sự là thi hành các bản án, quyết liệt về “dân sự” chủ yếu của Tòa án – cơ quan tài phán nên đặc điểm của cưỡng chế thi hành án dân sự là sử dụng quyền lực nhà nước để bảo vệ và khôi phục các quyền về tài sản, các quyền về dân sự khác cho đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo bản án, quyết định có hiệu lực thi hành chủ yếu của Tòa án. nhà nước thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự thông qua chủ thể được nhé̀ nước trao quyền, được sử dụng quyền lực nhé̀ nước khi cưỡng chế thi hành án dân sự.2.2. Cưỡng chế thi hành án dân sự là một biện pháp thi hành án dân sựBiện pháp là cách làm, cách thức tiến hành, giải quyết một vấn đề cụ thể”[17]. Bản án, quyết liệt được thi hành có nhiều khoản, tùy từng trường hợp chi tiết có khả năng tổ chức thi hành một hoặc một vài khoản trong bản án, quyết định theo yêu cầu của đương sự hoặc quy định của pháp luật. Khi tổ chức thi hành một hoặc một vài khoản của bản án, quyết định thì phải thực hiện thông qua trình tự, giấy tờ thi hành án dân sự, với các bước thể hiện của quá trình khởi động, thực hiện và kết thúc việc thi hành án dân sự. Việc thi hành án dân sự được khởi động bằng quyết liệt thi hành án. Mỗi quyết định thi hành án là một việc thi hành án dân sự. Việc thi hành án dân sự được thực hiện trước hết bằng biện pháp tự nguyện thi hành án. Biện pháp tự nguyện thi hành án luôn luôn được khuyến khích, theo đó người phải thi hành án tự nguyện thực hiện nghĩa vụ thi hành án trong thời hạn pháp luật quy định hoặc người phải thi hành án thỏa thuận được với người được thi hành án phương thức thực hiện việc thi hành án dân sự.mặc khác, trong trường hợp biện pháp tự nguyện thi hành án không thực hiện được thì phải có sự can thiệp mạnh của nhà nước để buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ thi hành án bằng việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự phù hợp. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự trong trường hợp nhất định, kể cả áp dụng đối với người thứ ba để thi hành án chính là một biện pháp thi hành án dân sự. có thể nói, ngoại trừ trường hợp đặc biệt, cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp thi hành án dân sự chỉ được thực hiện sau khi đã động viên, thuyết phục người phải thi hành án tự nguyện thi hành án nhưng họ vẫn không tự nguyện thi hành án. Việc cưỡng chế thi hành án dân sự ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích vật chất, nhân thân của đương sự, nhất là người phải thi hành án nên thường gặp phải sự chống đối quyết liệt của đối tượng bị cưỡng chế, đồng thời các quyết liệt, hành vi của chủ thể tiến hành cưỡng chế thi hành án dân sự rất dễ bị khiếu nại, tố cáo từ cả hai phía người phải thi hành án và người được thi hành án, Vì vậy phải hạn chế tối đa việc tổ chức thi hành án dân sự bằng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự; trong hợp phải cưỡng chế thi hành án dân sự thì phải thực hiện đúng trình tự, Thủ tục theo quy định pháp luật. Vì vậy, tự nguyện thi hành án dân sự và cưỡng chế thi hành án dân sự là hai biện pháp thi hành án dân sự được pháp luật quy định nhưng biện pháp thi hành án dân sự thực hiện thông qua cưỡng chế thi hành án dân sự chỉ khi người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án, trừ trường hợp đặc biệt do cần ngăn ngừa hành vi tẩu tán, hủy hoại của cải/tài sản hoặc hành vi khác nhằm trốn tránh việc thi hành án dân sự. Mặc dù đã ra quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự nhưng sự tự nguyện thi hành án dân sự vẫn được khuyến khích thực hiện để Giảm, hạn chế thiểu tối đa việc phải cưỡng chế thi hành án dân sự đến cùng.2.3. Cưỡng chế thi hành án dân sự áp dụng đối với nhiều đối tượngTrong thi hành án hình sự, đối tượng cưỡng chế là cá nhân hoặc pháp nhân thương mại bị kết án (người phải thi hành án) theo bản án, quyết liệt của Tòa án và nhằm mục đích trừng trị người phải thi hành án, cùng lúc ấy cải tạo, giáo dục họ trở thành người tốt, có ích cho xã hội. Thế nhưng, trong thi hành án dân sự, đối tượng bị cưỡng chế không chỉ là người phải thi hành án (người phải thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành)[18] mà còn được áp dụng đối với một số đối tượng khác. Trong thường xuyên trường hợp, sự chuyển hóa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia vào quy trình tố tụng trước khi thi hành án dân sự thành người được thi hành án hoặc người phải thi hành án do họ được hưởng quyền hoặc phải thực hiện nghĩa vụ theo bản án, quyết liệt đã có hiệu lực pháp luật, khi đó họ bị cưỡng chế thi hành án dân sự nếu họ thuộc đối tượng là người phải thi hành án hoặc người được thi hành án và tất nhiên họ phải chịu chi phí cưỡng chế thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật. Đối tượng bị cưỡng chế thi hành án dân sự có khả năng là cá nhân hoặc tổ chức, là người Việt Nam hoặc người nước ngoài, người đang quản lý tài sản hoặc không trực tiếp quản lý của cải/tài sản cưỡng chế thi hành án dân sự. Thông thường thì đối tượng bị cưỡng chế thi hành án dân sự là người phải thi hành án bởi họ phải thực hiện nghĩa vụ theo nội dung bản án, quyết định, do đó đối tượng bị cưỡng chế thi hành án dân sự không phải là người phải thi hành án dân sự không thường xuyên và chỉ bị cưỡng chế thi hành án dân sự trong những trường hợp cụ thể do pháp luật quy định, đó có khả năng là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án của đương sự hoặc là người thứ ba đang quản lý của cải/tài sản thi hành án dân sự mà không tự nguyện giao của cải/tài sản để xử lý bảo đảm thi hành án dân sự hoặc không tự nguyện giao tài sản cho người mua được của cải/tài sản bán đấu giá, người nhận tài sản để thi hành án.Việc thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự đối với đối tượng không phải là người phải thi hành án đòi hỏi phải cẩn trọng, tuân thủ đúng trình tự, hồ sơ cưỡng chế thi hành án dân sự, bởi họ không mong muốn bị cưỡng chế thi hành án dân sự nhưng không thể thực hiện được sự tự nguyện thi hành án do họ không có nghĩa vụ thi hành án và có trường hợp họ bị thiệt hại nhất định từ việc cưỡng chế thi hành án dân sự, như trường hợp cưỡng chế của cải/tài sản của người phải thi hành án có chung với người khác hoặc của cải/tài sản của người phải thi hành án đang cho người khác thuê, mượn, nhận cầm cố, thế chấp đang trong thời hạn hợp đồng thuê, mượn, cầm cố, thế chấp của cải/tài sản. Việc cưỡng chế thi hành án dân sự đối với đối tượng không phải là người phải thi hành án không giống như đối với người phải thi hành án, nhất là trong trường hợp quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự áp dụng trực tiếp đối với người phải thi hành án nhưng việc thực hiện quyết liệt cưỡng chế thi hành án dân sự lại được tiến hành đối với người không phải là người phải thi hành án, có trường hợp chỉ là bắt buộc họ chuyển đồ đạc, di dời của cải/tài sản ra khỏi của cải/tài sản bị cưỡng chế thi hành án dân sự của người phải thi hành án, tuy vậy họ vẫn là đối tượng bị cưỡng chế thi hành án dân sự mặc dù họ không phải là người phải thi hành án.2.4. Cưỡng chế thi hành án dân sự được áp dụng thông qua thực hiện quyết định có hiệu lực yêu cầu thi hànhCưỡng chế thi hành án dân sự được thể hiện cụ thể bằng việc ban hành quyết định của người có thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế. Tùy từng trường hợp cụ thể, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế ra quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự. Với tính chất là một văn bản áp dụng pháp luật, quyết liệt cưỡng chế thi hành án dân sự có tổng giá trị bắt buộc thi hành đối với người bị cưỡng chế. quyết định cưỡng chế được ban hành trên cơ sở bản án, quyết liệt được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự và nhằm thi hành bản án, quyết liệt đó, do đó nếu quyết định cưỡng chế được ban hành mà không tổ chức thực hiện thì quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự đó chưa được thực thi trên thực tế, chưa ban hành quyết định cưỡng chế thì cưỡng chế thi hành án dân sự chưa được áp dụng. tuy nhiên, xuất phát từ bản chất của cưỡng chế thi hành án dân sự là sử dụng quyền lực nhà nước thì thông qua thực hiện quyết liệt có hiệu lực thi hành, cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp hạn chế quyền tự chủ, định đoạt của chủ sở hữu, sử dụng của cải/tài sản nhằm đảm bảo khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án theo bản án, quyết định có hiệu lực thi hành. Chính Vì vậy, cưỡng chế thi hành án dân sự không những có ý nghĩa bảo đảm thi hành án mà còn là bảo vệ sự bình đẳng trước pháp luật giữa các đương sự, cá nhân, tổ chức có liên quan, là căn cứ quan trọng trong việc xử lý hành vi vi phạm của người phải thi hành án, đặc biệt là trong việc xử lý bằng trách nhiệm hình sự. Theo quy định của pháp luật hình sự thì người nào có khó khăn mà không chấp hành bản án hoặc quyết liệt của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật có khả năng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không chấp hành án. Như vậy, bị áp dụng biện pháp cưỡng chế là yếu tố bắt buộc về ngoài rah quan trong cấu thành tội không chấp hành án.quyết liệt cưỡng chế thi hành án dân sự không chỉ có tổng giá trị yêu cầu thi hành đối với người phải thi hành án, mà tất cả những tổ chức, cá nhân có liên quan phải tôn trọng và thực hiện. Chủ thể có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự phải thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, hồ sơ, nội dung và phù hợp với thực tế; hành vi ra quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự không đúng pháp luật cũng bị xử lý nghiêm khắc, trong đó có cách thức xử lý bằng trách nhiệm hình sự với tội danh không thi hành án hoặc ra quyết liệt trái pháp luật.TS. Lê Anh Tuấn


[1]. Nguyễn Công Long (2000), Luận án Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.76.

Mọi Người Xem :   Quả khô có đặc điểm gì ?

[2]. Đặng Đình Quyền (2012), “Hiệu quả áp dụng pháp luật trong thi hành án dân sự ở Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ luật học, Hà Nội, tr.17.

[3]. Viện ngôn ngữ học (2001), Từ điển tiếng Việt, NXB Thanh niên, Hà Nội, tr.126.

[4]. Nguyễn Như Ý (chủ biên, 1998), Đại Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo, NXB Văn hóa thông tin, tr.499.

[5]. Viện ngôn ngữ học (2001), Từ điển tiếng Việt, NXB Thanh niên, Hà Nội, tr.196.

[6].  Viện ngôn ngữ học (1996), Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 1, Hà Nội, tr.123

[7]. NXB Từ điển Bách khoa (1999), Từ điển Luật học, Hà Nội, tr.323.

[8] NXB Từ điển Bách khoa và NXB Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Hà Nội, tr. 204-205.

[9] Nguyễn Duy Lãm (chủ biên, 1996), Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng, NXB Giáo dục , tr.204-205.

[10] . Nguyễn Duy Lãm (chủ biên, 1996), Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng, NXB Giáo dục , tr.295.

[11]. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự, NXB Tư pháp, Hà Nội. tr.12.

[12]. NXB Từ điển Bách Khoa (2005), Từ điển tiếng Việt, Hà Nội,, tr.960

[13]. Viện ngôn ngữ học (1996), Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 1, Hà Nội. tr.1037.

[14]. Tòa án nhân dân tối cao (2014) “Tập hợp các báo cáo, chuyên đề về hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân; về quyền tư pháp và chế định Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân”, Tài liệu tham khảo phục vụ cho việc chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Luật Tổ chức Toà án nhân dân (sửa đổi), tr.98.

Mọi Người Xem :   Ngành viễn thông nước ta hiện nay

[15]. Quốc hội (2014), Luật thi hành án dân sự, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr.3.

[16]. Viện ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, tr.292.

[17]. NXB Từ điển Bách Khoa (2005), Từ điển tiếng Việt, Hà Nội, tr.161. 

[18]. Quốc hội (2014), Luật Thi hành án dân sự, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr.3.



Các câu hỏi về cưỡng chế nhà nước là gì


Nếu có bắt kỳ câu hỏi thắc mắt nào vê cưỡng chế nhà nước là gì hãy cho chúng mình biết nhé, mõi thắt mắt hay góp ý của các bạn sẽ giúp mình cải thiện hơn trong các bài sau nhé <3 Bài viết cưỡng chế nhà nước là gì ! được mình và team xem xét cũng như tổng hợp từ nhiều nguồn. Nếu thấy bài viết cưỡng chế nhà nước là gì Cực hay ! Hay thì hãy ủng hộ team Like hoặc share. Nếu thấy bài viết cưỡng chế nhà nước là gì rât hay ! chưa hay, hoặc cần bổ sung. Bạn góp ý giúp mình nhé!!

Các Hình Ảnh Về cưỡng chế nhà nước là gì


Các hình ảnh về cưỡng chế nhà nước là gì đang được chúng mình Cập nhập. Nếu các bạn mong muốn đóng góp, Hãy gửi mail về hộp thư [email protected] Nếu có bất kỳ đóng góp hay liên hệ. Hãy Mail ngay cho tụi mình nhé

Tra cứu thêm kiến thức về cưỡng chế nhà nước là gì tại WikiPedia

Bạn nên xem thêm nội dung chi tiết về cưỡng chế nhà nước là gì từ web Wikipedia.◄ Tham Gia Cộng Đồng Tại

???? Nguồn Tin tại: https://khoalichsu.edu.vn/

???? Xem Thêm Chủ Đề Liên Quan tại : https://khoalichsu.edu.vn/hoi-dap/

Mọi Người Xem :   Ý nghĩa thú vị của ngày 12/12/2012

🏠 Quay lại trang chủ

Các bài viết liên quan đến

Related Posts

About The Author